Chọn mẫu trong nghiên cứu là chọn ra 1 số đơn vị và từ những đặc điểm của
mẫu, nghiên cứu có thể suy ra được đặc điểm và tính chất của cả quần thể mà mẫu được chọn. Vấn đề quan
trọng nhất là đảm bảo cho mẫu nghiên cứu phải có khả năng đại diện được cho quần thể.
Quá trình tổ chức điều tra chọn mẫu thường gồm 6
bước sau:
– Xác định quần thể mà từ đó mẫu được chọn ra
– Xác định khung chọn mẫu hay danh sách chọn mẫu:Các khung chọn mẫu có sẵn, thường được sử dụng là: Các danh bạ điện thoại hay niên giám điện thoại xếp theo tên cá nhân, công ty, doanh nghiệp, cơ quan; các niên giám điện thoại xếp theo tên đường, hay tên quận huyện thành phố; danh sách liên lạc thư tín : hội viên của các câu lạc bộ, hiệp hội, độc giả mua báo dài hạn của các toà soạn báo…; danh sách tên và địa chỉ khách hàng có liên hệ với công ty (thông qua phiếu bảo hành), các khách mời đến dự các cuộc trưng bày và giới thiệu sản phẩm
– Lựa chọn phương pháp chọn mẫu: Dựa vào mục đích
nghiên cứu, tầm quan trọng của công trình nghiên cứu, thời gian tiến hành
nghiên cứu, kinh phí dành cho nghiên cứu, kỹ năng của nhóm nghiên cứu,… để
quyết định chọn phương pháp chọn mẫu xác suất hay phi xác suất; sau đó tiếp tục
chọn ra hình thức cụ thể của phương pháp này.
– Xác định quy mô mẫu (sample size): Xác định quy mô
mẫu thường dựa vào : yêu cầu về độ chính xác, khung chọn mẫu đã có sẵn chưa,
phương pháp thu thập dữ liệu, chi phí cho phép. Đối với mẫu xác suất: thường có
công thức để tính cỡ mẫu; đối với mẫu phi xác suất: thường dựa vào kinh nghiệm
và sự am hiểu về vấn đề nghiên cứu để chọn cỡ mẫu.
– Xác định các chỉ thị để nhận diện được đơn vị mẫu
trong thực tế: Đối với mẫu xác suất: phải xác định rõ cách thức để chọn từng
đơn vị trong tổng thể chung vào mẫu sao cho đảm bảo mọi đơn vị đều có khả năng
được chọn như nhau.
– Kiểm tra quá trình chọn mẫu: thường kiểm tra trên
các mặt sau: Kiểm tra đơn vị trong mẫu có đúng đối tượng nghiên cứu không? (vì
thường mắc sai lầm ở khâu chọn đối tượng: do thu thập thông tin ở nơi không
thích hợp, ở những người không thích hợp, hoặc bỏ qua thông tin của những người
lẽ ra phải được phỏng vấn…). Kiểm tra sự cộng tác của người trả lời (hỏi càng
dài thì sự từ chối trả lời càng lớn). Kiểm tra tỷ lệ hoàn tất (xem đã thu thập
đủ số đơn vị cần thiết trên mẫu chưa) : trong phỏng vấn bằng thư có khi thư bị
trả lại do không có người nhận, trong phỏng vấn bằng điện thoại có thể không
tiếp xúc được với người cần hỏi vì họ không có mặt hay họ không có điện thoại.
Đi sâu vào phương pháp chọn mẫu ta có 2 phương pháp
chọn mẫu cơ bản là :
1-Phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên (probability
sampling methods):
Chọn mẫu ngẫu nhiên (hay chọn mẫu xác suất) là
phương pháp chọn mẫu mà khả năng được chọn vào tổng thể mẫu của tất cả các đơn
vị của tổng thể đều như nhau. Đây là phương pháp tốt nhất để ta có thể chọn ra
một mẫu có khả năng đại biểu cho tổng thể. Vì có thể tính được sai số do chọn
mẫu, nhờ đó ta có thể áp dụng được các phương pháp ước lượng thống kê, kiểm
định giả thuyết thống kê trong xử lý dữ liệu để suy rộng kết quả trên mẫu cho
tổng thể chung
Tuy nhiên ta khó áp dụng phương pháp này khi không
xác định được danh sách cụ thể của tổng thể chung (ví dụ nghiên cứu trên tổng
thể tiềm ẩn); tốn kém nhiều thời gian, chi phí, nhân lực cho việc thu thập dữ
liệu khi đối tượng phân tán trên nhiều địa bàn cách xa nhau,…
* Các phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên:
Chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản (simple random
sampling):
Trước tiên lập danh sách các đơn vị của tổng thể chung theo một trật tự nào đó
: lập theo vần của tên, hoặc theo quy mô, hoặc theo địa chỉ…, sau đó đánh số
thứ tự các đơn vị trong danh sách; rồi rút thăm, quay số, dùng bảng số ngẫu
nhiên, hoặc dùng máy tính để chọn ra từng đơn vị trong tổng thể chung vào mẫu.
Thường vận dụng khi các đơn vị của tổng thể chung
không phân bố quá rộng về mặt địa lý, các đơn vị khá đồng đều nhau về đặc điểm
đang nghiên cứu. Thường áp dụng trong kiểm tra chất lượng sản phẩm trong các
dây chuyền sản xuất hàng loạt.
Chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống(systematic sampling):
Trước tiên lập danh sách các đơn vị của tổng thể
chung theo một trật tự quy ước nào đó, sau đó đánh số thứ tự các đơn vị trong
danh sách. Đầu tiên chọn ngẫu nhiên 1 đơn vị trong danh sách ; sau đó cứ cách
đều k đơn vị lại chọn ra 1 đơn vị vào mẫu,…cứ như thế cho đến khi chọn đủ số
đơn vị của mẫu. Ví dụ : Dựa vào danh sách bầu cử tại 1 thành phố, ta có danh
sách theo thứ tự vần của tên chủ hộ, bao gồm 240.000 hộ. Ta muốn chọn ra một
mẫu có 2000 hộ. Vậy khoảng cách chọn là : k= 240000/2000 = 120, có nghĩa là cứ
cách 120 hộ thì ta chọn một hộ vào mẫu.
Chọn mẫu cả khối (cluster sampling):
Trước tiên lập danh sách tổng thể chung theo từng khối (như làng, xã, phường,
lượng sản phẩm sản xuất trong 1 khoảng thời gian…). Sau đó, ta chọn ngẫu nhiên
một số khối và điều tra tất cả các đơn vị trong khối đã chọn. Thường dùng
phương pháp này khi không có sẵn danh sách đầy đủ của các đơn vị trong tổng thể
cần nghiên cứu. Ví dụ : Tổng thể chung là sinh viên của một trường đại học. Khi
đó ta sẽ lập danh sách các lớp chứ không lập danh sách sinh viên, sau đó chọn
ra các lớp để điều tra.
Chọn mẫu phân tầng (stratified sampling):
Trước tiên phân chia tổng thể thành các tổ theo 1
tiêu thức hay nhiều tiêu thức có liên quan đến mục đích nghiên cứu (như phân tổ
các DN theo vùng, theo khu vực, theo loại hình, theo quy mô,…). Sau đó trong
từng tổ, dùng cách chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản hay chọn mẫu hệ thống để chọn
ra các đơn vị của mẫu. Đối với chọn mẫu phân tầng, số đơn vị chọn ra ở mỗi tổ
có thể tuân theo tỷ lệ số đơn vị tổ đó chiếm trong tổng thể, hoặc có thể không
tuân theo tỷ lệ. Ví dụ : Một toà soạn báo muốn tiến hành nghiên cứu trên một
mẫu 1000 doanh nghiệp trên cả nước về sự quan tâm của họ đối với tờ báo nhằm
tiếp thị việc đưa thông tin quảng cáo trên báo. Toà soạn có thể căn cứ vào các
tiêu thức : vùng địa lý (miền Bắc, miền Trung, miền Nam) ; hình thức sở hữu
(quốc doanh, ngoài quốc doanh, công ty 100% vốn nước ngoài,…) để quyết định cơ
cấu của mẫu nghiên cứu.
Chọn mẫu nhiều giai đoạn (multi-stage sampling):
Phương pháp này thường áp dụng đối với tổng thể
chung có quy mô quá lớn và địa bàn nghiên cứu quá rộng. Việc chọn mẫu phải trải
qua nhiều giai đoạn (nhiều cấp). Trước tiên phân chia tổng thể chung thành các
đơn vị cấp I, rồi chọn các đơn vị mẫu cấp I. Tiếp đến phân chia mỗi đơn vị mẫu
cấp I thành các đơn vị cấp II, rồi chọn các đơn vị mẫu cấp II…Trong mỗi cấp có
thể áp dụng các cách chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản, chọn mẫu hệ thống, chọn mẫu
phân tầng, chọn mẫu cả khối để chọn ra các đơn vị mẫu. Ví dụ :Muốn chọn ngẫu
nhiên 50 hộ từ một thành phố có 10 khu phố, mỗi khu phố có 50 hộ. Cách tiến
hành như sau : Trước tiên đánh số thứ tự các khu phố từ 1 đến 10, chọn ngẫu
nhiên trong đó 5 khu phố. Đánh số thứ tự các hộ trong từng khu phố được chọn.
Chọn ngẫu nhiên ra 10 hộ trong mỗi khu phố ta sẽ có đủ mẫu cần thiết.
2-Phuơng pháp chọn mẫu phi ngẫu nhiên
(non-probability sampling methods):
Chọn mẫu phi ngẫu nhiên (hay chọn mẫu phi xác suất)
là phương pháp chọn mẫu mà các đơn vị trong tổng thể chung không có khả năng
ngang nhau để được chọn vào mẫu nghiên cứu. Chẳng hạn: Ta tiến hành phỏng vấn
các bà nội trợ tới mua hàng tại siêu thị tại một thời điểm nào đó ; như vậy sẽ
có rất nhiều bà nội trợ do không tới mua hàng tại thời điểm đó nên sẽ không có
khả năng được chọn
Việc chọn mẫu phi ngẫu nhiên hoàn toàn phụ thuộc vào
kinh nghiệm và sự hiểu biết về tổng thể của người nghiên cứu nên kết quả điều
tra thường mang tính chủ quan của người nghiên cứu. Mặt khác, ta không thể tính
được sai số do chọn mẫu, do đó không thể áp dụng phương pháp ước lượng thống kê
để suy rộng kết quả trên mẫu cho tổng thể chung
Các phương pháp chọn mẫu phi ngẫu nhiên:
Chọn mẫu thuận tiện (convenience sampling):
Có nghĩa là lấy mẫu dựa trên sự thuận lợi hay dựa
trên tính dễ tiếp cận của đối tượng, ở những nơi mà nhân viên điều tra có nhiều
khả năng gặp được đối tượng. Chẳng hạn nhân viên điều tra có thể chặn bất cứ
người nào mà họ gặp ở trung tâm thương mại, đường phố, cửa hàng,.. để xin thực
hiện cuộc phỏng vấn. Nếu người được phỏng vấn không đồng ý thì họ chuyển sang
đối tượng khác. Lấy mẫu thuận tiện thường được dùng trong nghiên cứu khám phá,
để xác định ý nghĩa thực tiễn của vấn đề nghiên cứu; hoặc để kiểm tra trước
bảng câu hỏi nhằm hoàn chỉnh bảng; hoặc khi muốn ước lượng sơ bộ về vấn đề đang
quan tâm mà không muốn mất nhiều thời gian và chi phí.
Chọn mẫu phán đoán (judgement sampling):
Là phương pháp mà phỏng vấn viên là người tự đưa ra
phán đoán về đối tượng cần chọn vào mẫu. Như vậy tính đại diện của mẫu phụ
thuộc nhiều vào kinh nghiệm và sự hiểu biết của người tổ chức việc điều tra và
cả người đi thu thập dữ liệu. Chẳng hạn, nhân viên phỏng vấn được yêu cầu đến các
trung tâm thương mại chọn các phụ nữ ăn mặc sang trọng để phỏng vấn. Như vậy
không có tiêu chuẩn cụ thể “thế nào là sang trọng” mà hoàn toàn dựa vào phán
đoán để chọn ra người cần phỏng vấn.
Chọn mẫu định ngạch (quota sampling):
Đối với phương pháp chọn mẫu này, trước tiên ta tiến hành phân tổ tổng thể theo một tiêu thức nào đó mà ta đang quan tâm, cũng giống như chọn mẫu ngẫu nhiên phân tầng, tuy nhiên sau đó ta lại dùng phương pháp chọn mẫu thuận tiện hay chọn mẫu phán đoán để chọn các đơn vị trong từng tổ để tiến hành điều tra. Sự phân bổ số đơn vị cần điều tra cho từng tổ được chia hoàn toàn theo kinh nghiệm chủ quan của người nghiên cứu. Chẳng hạn nhà nghiên cứu yêu cầu các vấn viên đi phỏng vấn 800 người có tuổi trên 18 tại 1 thành phố. Nếu áp dụng phương pháp chọn mẫu định ngạch, ta có thể phân tổ theo giới tính và tuổi như sau:chọn 400 người (200 nam và 200 nữ) có tuổi từ 18 đến 40, chọn 400 người (200 nam và 200 nữ) có tuổi từ 40 trở lên. Sau đó nhân viên điều tra có thể chọn những người gần nhà hay thuận lợi cho việc điều tra của họ để dễ nhanh chóng hoàn thành công việc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét