Thứ Năm, 28 tháng 10, 2021

Bệnh dịch hạch: Sử dụng hóa chất chống dịch

Phụ Lục 4.

PHƯƠNG PHÁP XỬ DỤNG HÓA CHẤT VÀ DỰ TRÙ HÓA CHẤT CHO MỘT ĐỢT PHUN

1. Chuẩn bị dung dịch hóa chất phun.

   Theo quy trình phun thì dung dịch hoá chất được phun theo tỉ lệ 40ml/m2 hoặc 1l/25m2. Với tỉ lệ phun như trên thì dung dịch hoá chất sẽ bám vào bề mặt phun mà không bị trôi xuống.

1.1. Hóa chất bột tan trong nước.

   Một lít dung dịch phun có thể được chuẩn bị theo công thức sau đây:

   Trong đó:

               X = Trọng lượng bột hoá chất cần thiết (g)

               Y = Liều sử dụng (g/m2)

               C = Nồng độ hoạt chất trong công thức (%)

Ví dụ: DDT (bột tan trong nước 75%) phun liều 2g/m2trong 1lít nước:                                                         

Nếu dùng bình bơm 8 lít, lượng bột hoá chất cần là : 8 x 66,6g = 533,3g

   Như vậy, hoá chất nên được đóng gói trong các túi nhỏ, mỗi túi đựng 533,3g. ở thực địa, đổ 8 lít nước vào xô để pha hóa chất. Hoà hoá chất đựng trong một gói với lượng nước này, dùng que gỗ để quấy đều. Rót dung dịch hoá chât vào bình phun qua phễu có màng lọc, đậy bình phun lại và lắc đều.

1.2. Dịch nhũ tương.

   Để chuẩn bị dung dịch hoá chất phun từ dịch nhũ tương, sử dụng cùng công thức tính toán như đối với bột tan trong nước là:                      

   Trong đó:

   X = Lượng dịch nhũ tương cần thiết (ml)

   Y = Liều sử dụng (g/m2)

   C = Nồng độ hoạt chất trong hoá chất diệt (%)

   Để pha 1 lít dung dịch, đổ X ml dịch nhũ tương vào (1000 – X) ml nước.

   Ví dụ: DDT (dịch nhũ tương 25%) được phun liều 1g/m2 trong 1 lít nước:

   Để pha một lít dung dịch treo, rót 100ml dịch nhũ tương vào 900ml nước. Để pha cho một bình bơm 8 lít, rót 800ml dịch nhũ tương vào 7200ml nước.

2. Phun hóa chất:

2.1. Nơi phun:

   Tất cả những vị trí được biết là nơi đậu và trú ẩn của côn trùng cần diệt đều phải được phun. Tùy theo loài, côn trùng có thể đậu ở những nơi có người ở, trong các nhà bỏ hoang, chuồng gia súc, kho chứa lương thực. Quyết định phun ở đâu chỉ đưa ra sau khi trao đổi ý kiến với chuyên gia lĩnh vực phòng chống bệnh lây truyền qua trung gian truyền bệnh.

   Các chuyên gia cũng phải quyết định là phun hay không phun cho trường học, cửa hàng, nhà thờ, nhà máy, kho chứa hàng và những tòa nhà lớn khác là những nơi người ngũ không thường xuyên. Trong trường hợp còn phân vân thì những nơi đó không nên phun vì rất tốn kém.

   Về nguyên tắc tất cả những nơi mà côn trùng có thể đậu thì nên phun. Tuy nhiên khi phun như vậy sẽ tốn rất nhiều thời gian và đôi khi chủ nhà không chấp nhận cho phun lên một số nơi như dụng cụ đồ đạc, chiếu, phía sau những bức tranh, kèo nhà, các dầm xà và cột. Thường thường thì chỉ phun lên những tường vách, trần nhà và mái hiên là đủ.

2.2. Phun chọn lọc:       Ví dụ: Một làng có 100 nhà. Diện tích bề mặt trung bình cần phun cho một nhà là 200m2. Liều DDT sử dụng là 2g/m2. Hóa chất DDT dạng bột tan trong nước 75%.
x

   Một số côn trùng thích trú đậu trên các bề mặt ở những vị trí đặc biệt. chẳng hạn có những loài muỗi chủ yếu đậu ở phần chân tường, chỉ đậu trên trần nhà hoặc chỉ đậu ở mái hiên. Do vậy chỉ cần phun ở những nơi vừa nói ở trên cũng thu được hiệu qủa với chi phí thấp nhất.

   Trong phòng chống sốt rét không cần thiết phải phun những tòa nhà mà ở đó người không ngủ thường xuyên. Tuy nhiên cần phun những lán trại tạm thời dùng để ở trong mùa trồng trọt hoặc khi thu hoạch hoặc để săn bắt hoặc đánh cá.

   3. Xác định tổng diện tích cần phun:

   Việc đầu tiên nên làm là vẽ bản đồ cụm dân cư chỉ rõ vị trí của tất cả những nhà cần phun. Mỗi môt nhà được đánh số, con số này vừa được ghi trên bản đồ và vừa được viết lên trước nhà.

   Kích thước tương đối và kiểu cấu trúc của mỗi nhà cũng như vật liệu làm tường, trần nhà và các loại bề mặt đều được ghi rõ.

   Nếu các nhà có các kiểu cấu trúc và thiết kế tương tự thì có thể ước lượng diện tích bề mặt cần phun trung bình cho một nhà. Cứ trong 100 nhà chọn ra 5 nhà để đo và tính ước lượng diện tích phun trung bình. Tường, trần và các loại bề mặt trong 5 nhà này đều được đo; dùng thước dài chừng 2m có chia vạch mỗi khoảng 50cm để đo.

   4. Tính lượng hóa chất diệt cần cho một đợt phun:

   Tổng số lượng hóa chất diệt ( T ) cần phải có phụ thuộc vào:

N: số nhà sẽ phun

S: Diện tích phun trung bình cho một nhà ( m2 )

Y: Liều sử dụng ( g/m2 )

C: Nồng độ hoạt chất trong hóa chất diệt ( % )

   Nên tính toán dự trù thêm ít nhất 10% hóa chất diệt để dự phòng.

Bệnh dịch hạch - Biện pháp kiểm dịch quốc tê

 

Trích theo phần V, chương 1, điều 50 đến 60 của Điều lệ Kiểm dịch Quốc tế (1969), xuất bản lần thứ 3 năm 1983, có sửa đổi và in lại năm 1992.

   Điều lệ Kiểm dịch Quốc tế được Hội đồng y tế thế giới lần 22 thông qua ngày 25 tháng 7 năm 1969 là Điều lệ được sửa đổi và thống nhất từ Điều lệ Vệ sinh Quốc tế trước đây.

   Điều 50:

   Theo quy định, thời gian ủ bệnh là 6 ngày.

   Điều 51:

   Tiêm vắc xin phòng bệnh dịch hạch không phải là điều kiện cho phép nhập cảnh.

   Điều 52:

   1. Tùy theo khả năng của mỗi nước mà áp dụng mọi biện pháp để làm giảm nguy cơ lan bệnh do chuột và ngoại ký sinh của chúng. Cơ quan y tế của mỗi nước phải thường xuyên nắm chắc một cách có hệ thống các thông tin liên quan và tiến hành giám sát chuột, ngoại ký sinh ở trên địa bàn có hoặc nghi ngờ có dịch hạch trên chuột, đặc biệt là hải cảng và sân bay.

   2. Trong thời gian đỗ tại hải cảng và sân bay để phòng chống dịch hạch, tàu thuỷ và sân bay phải chú ý thực hiện các biện pháp chống chuột xâm nhập.

   Điều 53:

   1. Mỗi tàu thủy phải:

a. Thường xuyên giữ trong tình trạng không có chuột và trung gian truyền bệnh dịch hạch.

   b. Hoặc diệt chuột định kỳ

   2. Chỉ các cơ quan kiểm dịch y tế ở các cảng (theo quy định tại điều 17) mới được cấp giấy chứng nhận diệt chuột, miễn diệt chuột có giá trị trong vòng 6 tháng, nhưng có thể gia hạn thêm 1 tháng để tàu thủy có thể đến 1 hải cảng khác có điều kiện tiến hành diệt chuột theo quy định.

   3. Giấy chứng nhận diệt chuột, miễn diệt chuột phải theo đúng mẫu quy định tại phụ lục 1.

   4. Trong trường hợp không có giấy chứng nhận có giá trị, cơ quan kiểm dịch y tế của hải cảng theo quy định tại điều 17, sau khi tiến hành điều tra, giám sát có thể tiến hành các biện pháp sau:

   a. Cơ quan kiểm dịch ở các hải cảng được chỉ định theo mục 2, điều 17 có thể tiến hành diệt chuột trên tàu hoặc chỉ định và hướng dẫn diệt chuột theo sự giám sát của mình. Tùy từng trường hợp cụ thể mà quyết định kỹ thuật diệt chuột đảm bảo không có chuột trên tàu. Tiến hành diệt chuột phải hết sức tránh không làm hư hại cho tàu, hàng hóa và phải hết sức nhanh chóng giải phóng tàu trong thời gian nhanh nhất. Diệt chuột cần tiến hành khi tàu không có hàng hóa. Trong trường hợp đang neo tàu cần tiến hành diệt chuột trước khi cho bốc xếp hàng hóa. Sau khi diệt chuột có kết quả, cơ quan y tế kiểm dịch cấp giấy chứng nhận diệt chuột.

   b. Tại các hải cảng được chỉ định theo điều 17 cơ quan kiểm dịch y tế có thể cấp giấy chứng nhận miễn diệt chuột nếu điều tra không có chuột chết trên tàu, việc điều tra phải tiến hành khi các khoang không có hàng hoặc khi đang dằn tàu hay khi tàu chở hàng hóa không thu hút chuột. Có thể cấp giấy miễn diệt chuột cho tàu hòan toàn chở dầu.

   5. Nếu việc diệt chuột không đạt hiệu quả mong muốn, cơ quan kiểm dịch y tế có thể ghi chú vào chứng nhận diệt chuột đã có của tàu.

   Điều 54:

   Trong trường hợp đặc biệt về dịch tễ, khi nghi ngờ có chuột ở trên tàu bay thì tàu bay đó phải được diệt côn trùng và diệt chuột.

   Điều 55:

   Trong hành trình quốc tế trước khi rời khỏi vùng có dịch hạch thể phổi, cơ quan kiểm dịch y tế phải cách ly người nghi ngờ 6 ngày kể từ thời gian tiếp xúc với bệnh lần cuối cùng.

   Điều 56 :

   1. Tàu thủy, tày bay khi đến có thể coi là bị nhiễm bệnh nếu:

a. Có người mắc bênh dịch hạch trên tàu.

   b. Có chuột bị dịch hạch.

Tàu thủy cũng có thể bị coi là nhiễm bệnh nếu đã có người mắc bệnh dịch hạch quá 6 ngày sau khi khởi hành.

   2. Tàu thủy khi đến có thể coi là nghi ngờ nhiễm bệnh nếu:

   a. Có người đã mắc bệnh dịch hạch trong vòng 6 ngày đầu sau khi tàu nhổ neo mà trước đó trên tàu không có người mắc dịch hạch.

   b. Có hiện tượng chuột chết bất thường không rõ nguyên nhân.

   c. Có người đã tiếp xúc với dịch hạch thể phổi và không được cách ly theo đúng qui định ở điều 55.

3. Ngay cả tàu thủy hoặc tàu bay đi từ vùng nhiễm bệnh tới hoặc trên tàu có người đi từ vùng nhiễm bệnh tới, khi đến tàu thủy hoặc tàu bay vẫn được coi là “hợp vệ sinh” nếu cơ quan kiểm dịch y tế thấy không có những điều kiện qui định ở mục 1 và 2 của điều này khi kiểm tra y tế.

Điều 57:

1. Cơ quan kiểm dịch y tế có thể áp dụng các biện pháp sau đây đối với tàu thủy, tàu bay nhiễm bệnh hoặc nghi ngờ nhiễm bệnh khi đến:

a. Diệt côn trùng cho tàu thủy, tàu bay nghi ngờ và giám sát không quá 6 ngày kể từ lúc đến.

b. Diệt côn trùng và nếu cần diệt trùng:

i. Các hành lý của người bệnh hay người nghi ngờ bị bệnh.

ii. Các vật dụng như vải vóc, đồ trải giường đã dùng và các bộ phận của tàu thủy, tàu bay được coi bị ô nhiễm.

2. Khi đến, nếu tàu thủy, tàu bay, tàu hỏa ôtô hoặc các phương tiện vận tải khác có người mắc bệnh dịch hạch thể phổi hoặc đã có trường hợp thể dịch hạch thể phổi trong vòng 6 ngày trước khi tới thì ngoài các biện pháp qui định ở mục 1 của điều này cơ quan kiểm dịch y tế có thể cách ly hành khách, nhân viên vận tải trong thời gian 6 ngày kể từ thời gian cuối cùng tiếp xúc với bệnh.

3. Nếu trên tàu hoặc đồ chứa có chuột bị bệnh dịch hạch thì phải tiến hành diệt côn trùng và diệt chuột, nếu cần thì phải cách ly, như qui định ở điều 53 thì phải:

a. Diệt chuột ngay sau khi các khoang không có hàng.

b. Ngay khi chưa bốc dở hàng cũng tiến hành diệt chuột sơ bộ 1 hoặc nhiều lần, kể cả lúc đang bốc dỡ hàng để ngăn chặn chuột mắc bệnh.

c. Nếu không diệt chuột được hòan tòan vì chỉ 1 phần hàng hóa được bốc dỡ thì tàu vẫn được bốc dỡ từng phần hàng hóa đó, cơ quan kiểm dich y tế có thể áp dụng các biện pháp cần thiết để ngăn chặn chuột nhiễm bệnh tẩu thoát, kể cả biện pháp cách ly tàu.

4. Nếu phát hiện có chuột mắc bệnh dịch hạch trên tàu bay phải diệt côn trùng và diệt chuột, nếu cần phải cách ly tàu bay.

Điều 58 :

Tàu thủy, tàu bay được thôi không coi là nhiễm bệnh hoặc nghi nhiễm bệnh khi các biện pháp qui định ở điều 38 và 57 được thực hiện có hiệu quả hoặc khi cơ quan kiểm dịch y tế thấy rằng hiện tượng chuột chết bất thường không phải do dịch hạch. Do đó, tàu thủy, tàu bay được tự do vào bến, sân bay.

Điều 59 :

Khi tàu thủy, tàu bay “hợp vệ sinh” được tự do nhập bến, nhưng nếu từ vùng nhiễm bệnh tới cơ quan kiểm dịch y tế có thể:

a. Theo dõi những trường hợp nghi ngờ trong thời gian không quá 6 ngày, kể từ ngày tàu thủy tàu bay rời khỏi khu vực nhiễm bệnh.

b. Yêu cầu diệt chuột và diệt côn trùng trong các trường hợp đặc biệt và vì những lí do rõ ràng được trao đổi bằng văn bản với chủ tàu.

 

Điều 60:

Tàu hỏa, ô tô khi đến nếu có trường hợp dịch hạch thì cơ quan kiểm dịch y tế có thể áp dụng các biện pháp qui định ở điều 38 về mục 1 và 2 của điều 57 tiến hành diệt côn trùng, nếu cần thì diệt khuẩn cho bất cứ bộ phận, khu vực nào của tàu hỏa, ô tô bị coi là ô nhiễm.

Bệnh dịch hạch - Danh nhân y học (Alexandre Yersin, 1863-1943)

Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp Alexandre Yersin

Alexandre Yersin, tên đầy đủ Alexandre-émile-John Yersin, còn gọi là Alexandre-John-émile Yersin, sinh ngày 22 tháng 9 nm 1863 tại Vaud-Morges, Thụy Sỹ. Nm 1882 ông nhận bằng tú tài vn khoa, sau đó sang Pa-ri để theo học y khoa. Nm 1888, sau khi tốt nghiệp Trường Y Paris với luận án tiến sỹ y khoa về “Sự phát triển của bệnh lao thực nghiệm” và bệnh này trở thành kinh điển dưới tên “bệnh lao kiểu Yersin”, Ông đã chính thức nhập quốc tịch Pháp vào năm 1889. Cũng trong thời gian này, ông tham gia vào nhóm nghiên cứu của bác sỹ Louis Pasteur. Sau đó, bác sỹ Yersin trở nên nổi tiếng qua nhiều công trình tiên phong do nhóm nghiên cứu của Pasteur tiến hành. Với niềm say mê với biển cả, Ông đã rời Viện Pasteur vào làm việc với tư cách là thầy thuốc cho hãng vận tải đường biển Messageries Maritimes và đã đưa ông tới Việt Nam.

Alexandre Yersin đã nghiên cứu y học tại trường đại học Marburg và Paris, và nghiên cứu vi khuẩn học cùng với Esmile Roux ở Paris và Robert Koch ở Berlin. Nm 1888 ông và Roux đã phân lập được độc tố của vi khuẩn bạch hầu và chứng minh rằng chính độc tố, chứ không phải vi khuẩn làm tng triệu chứng của bệnh. Nm 1890, Yersin rời châu Âu để làm một thầy thuốc trên tàu thuỷ hoạt động ở vùng bờ biển Đông Dương, ngay sau đó ông bắt đầu chuyến thám hiểm kéo dài bốn nm ở miền Trung, Việt Nam. Ông đã tìm ra thượng nguồn sông Đồng Nai và khám phá cao nguyên Lâm Viên, nơi ông đề nghị xây dựng một thành phố, và đó chính là Đà Lạt ngày nay. Nm 1892 ông vào làm ở Sở Y tế thuộc địa và nm 1894 được cử sang Hồng Kông để nghiên cứu bệnh dịch hạch đang bùng phát tại đây. Ngày 20 tháng 6 năm 1894, ông và Kitasato Shibasaburo cùng một lúc đã độc lập tìm ra vi khuẩn gây bệnh dịch hạch trong khi nghiên cứu dịch hạch đang hoành hành ở Trung Quốc vào thời gian đại dịch lần thứ 3. Vi khuẩn gây bệnh dịch hạch cho đến nay đã được mang tên Ông. (Yersinia pestis). Sau đó, trở về Pa-ri để nghiên cứu phương pháp phòng và điều trị bệnh dịch hạch, chỉ trong một thời gian ngắn, Ông cùng Bác sĩ Roux đã nghiên cứu thành công cách điều chế huyết thanh miễn dịch để điều trị bệnh dịch hạch.

Tại thời điểm này, Ông đã nảy ra ý định một phòng thí nghiệm tại Đông Dương, ở ven biển, lại gần với ổ dịch hạch Hông Kông, Quảng Châu để điều chế huyết thanh trị bệnh bằng cách gây miễn dịch cho ngựa. Với ý định và mục đích đó, Nha Trang đã được Ông chọn làm nơi đặt phòng thí nghiệm, vừa có điều kiện thích hợp và cũng chính là nơi Ông có cảm tình và mong muốn sau đợt thám hiểm dài ngày ở Việt Nam.

Năm 1895, Ông đến sống cố định ở Nha Trang và thiết lập một phòng thí nghiệm tại đây. Đây là phòng thí nghiệm thứ 2 ở Đông Dương sau phòng thí nghiệm ở Sài gòn. ở Nha Trang, ông quan tâm đến các bệnh khác đang hiện hành ở người cũng như các bệnh dịch ở trâu bò. Ông nghiên cứu và điều chế huyết thanh chống bệnh bạch hầu cho người, gia súc và nghiên cứu nhiều bệnh khác như : uốn ván, tả và đậu mùa ... Ông đã lập trại chăn nuôi súc vật tại Suối Dầu, cách Nha Trang khoảng 10 Km. Tại đây, nuôi một số động vật, trong đó có ngựa để phục vụ công tác nghiên cứu và điều chế huyết thanh trị bệnh dịch hạch. Huyết thanh do Ông tạo ra đã được sử dụng cho việc chữa bệnh dịch hạch tại ấn Độ, Trung Quốc và đã cứu được hàng chục ngàn người ở 2 quốc gia này.

Không chỉ riêng lĩnh vực y học, Ông cũng rất quan tâm đến vấn đề đưa một số giống cây trồng mới vào Việt Nam. Ông đã tiến hành trồng ngô, lúa, cà phê và đưa cây cao su, Canh ki na, cacao vào Việt Nam.

Ông cũng chính là người được chính quyền Pháp chỉ định làm Viện Trưởng đầu tiên của Viện Pasteur Đông Dương – chi nhánh đầu tiên của Viện Pasteur Paris ở hải ngọai với 2 cơ sở chính là ở Nha Trang và Sài Gòn. Sau đó, Ông tiếp tục đề xuất thành lập thêm cơ sở ở Hà Nội (Viện Pasteur Hà Nội, 1920) và ở Đà Lạt (Viện Pasteur Đà Lạt, 1936). Như vậy, Viện Pasteur Đông Dương do Ông phụ trách có 4 cơ sở lớn ở Việt Nam hoạt động và quản lý theo nguyên tắc của Viện Pasteur Paris. Ngoài các cơ sở trên, Ông còn để nghị thành lập ở Huế, Phnômpenh, Vientiane. Mỗi nơi có 1 phòng thí nghiệm vi trùng học đặt đưới sự chỉ đạo của Viện Pasteur Đông Dương.

Với trách nhiệm to lớn, nặng nề, với trí thông minh, lòng say mê nghề nghiệp và tình yêu thương con người, Yersin đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp bảo bệ sức khỏe con người - Uớc mơ mà Ông hằng mong mỏi và Ông đã đóng góp to lớn cho sự nghiệp y học thế giới và cũng có thể nói Ông chính là Người đặt nền móng cho sự nghiệp y học dự phòng Việt Nam.

Những năm cuối đời, Yersin sống giản dị ở Nha Trang. Ông được người dân địa phương yêu mến vì đức khiêm tốn và sự chm sóc mà ông dành cho mọi người. Ông mua một khu lán trại bỏ hoang và sơn nó thành màu trắng. Đây vừa là nhà, vừa là phòng thí nghiệm của Ông. Dân địa phương thân mật gọi ngôi nhà của ông là Lầu Ông Nm hay Tháp Ngà.

Nm 1940, sức khỏe đã giảm sút, Alexander Yersin về Pháp. Đến nm 1941, ông trở lại ngôi nhà thân thương ở Nha Trang, ở đây ông đã sống những ngày còn lại và trút hơi thở cuối cùng vào ngày 3 tháng 1 năm 1943, thọ 80 tuổi. Trong di chúc của mình, ông đã yêu cầu được chôn cất tại Nha Trang, gần gũi với những người mà ông yêu mến.

6. Bệnh dịch hạch - Phòng chống

Dịch hạch là bệnh của loài gặm nhấm hoang dại, lây truyền từ quần thể gặm nhấm này sang quần thể khác hoặc lan truyền sang người qua trung gian bọ chét. Phòng chống sự lan truyền của dịch hạch là phải kiểm soát được nguồn bệnh và bọ chét là trung gian truyền bệnh. Khi vụ dịch đang bùng phát biện pháp diệt bọ chét phải được ưu tiên trước khi tiến hành diệt vật chủ. Để đảm bảo chuẩn bị phòng chống có hiệu quả với dịch hạch thì các vùng dịch lưu hành phải được xác định và những đặc điểm dịch tễ học như tính thay đổi theo mùa của những vụ dịch trước cũng như vật chủ và trung gian truyền bệnh chính tại địa phương. Cần dự đoán những biện pháp sẽ tiến hành nếu xảy ra dịch cũng như cần theo dõi chặt chẽ thông tin cơ bản liên quan đến hiệu quả của công tác phòng chống dịch hạch như độ nhậy cảm của véc tơ chính của dịch hạch đối với hóa chất thường được sử dụng, tính thay đổi theo mùa của quần thể bọ chét và vật chủ để phát hiện ra những thay đổi khác thường như gia tăng hoặc giảm đột ngột mà có thể là một chỉ điểm về một vụ dịch động vật.

Thêm vào đó, cần nắm được chu kỳ dịch hạch ở địa phương thông qua những nghiên cứu về miễn dịch của quần thể vật chủ và khả năng lan truyền bệnh của véc tơ. Biện pháp quan trọng nhất là thiết lập hệ thống giám sát thích hợp để phát hiện những hoạt động bất thường trong khu vực. Cần lưu ý về các ổ dịch tự nhiên có thể tiềm tàng trong nhiều năm mà hoàn toàn không ghi nhận một bệnh nhân dịch hạch, sau đó có thể do những thay đổi về sinh thái học hoặc bệnh nhân dịch hạch từ nơi khác đến gây bùng phát một vụ dịch.

6.1. Nguyên tắc phòng chống dịch hạch:

Phòng chống sự lan truyền dịch hạch từ quần thể gặm nhấm này sang quần thể gặm nhấm khác hoặc lan truyền sang người đạt kết qủa nhanh chóng nhờ khống chế được trung gian truyền bệnh. Vấn đề đặt ra trước đây là tính ưu tiên của diệt vật chủ hay diệt bọ chét, đã được Gordon và Knies nghiên cứu từ lâu và xác định rằng diệt bọ chét là mục đích cần đạt đầu tiên rồi sau đó mới tiến hành công tác diệt chuột. Một số nguyên tắc khác trong phòng chống dịch hạch được Gordon và Knies khuyến cáo cho đến nay vẫn còn giá trị mặc dù loại hóa chất mà họ dùng đương thời là DDT đến nay không còn sử dụng nữa.

Thực ra ngay từ năm 1898, Simond đã trình bày biện pháp phòng chống dịch hạch nên bắt đầu từ việc khống chế bọ chét hơn là diệt vật chủ vì khi một số lượng lớn quần thể vật chủ bị diệt thì bọ chét ký sinh sẽ rời vật chủ chết và nhảy vào môi trường xung quanh để tìm vật chủ mới. Số lớn bọ chét này, đặc biệt là những bọ chét nhiễm vi khuẩn dịch hạch bị “tắc nghẽn” sẽ làm cho dịch bùng phát lớn hơn. Như vậy, bước đầu tiên trong công tác phòng chống một vụ dịch hạch là cắt đứt sự lan truyền của bệnh bằng biện pháp phòng chống bọ chét.

6.2. Phòng chống bọ chét:

Theo kinh điển về phòng chống bọ chét là sử dụng rộng rãi các loại hóa chất diệt côn trùng. Việc tiến hành diệt quần thể gặm nhấm với quy mô lớn, đặc biệt là các loài chuột ở trong và xung quanh khu dân cư ở thành thị cũng như nông thôn trong khi dịch đang bùng phát phải thực hiện sau hoặc tối thiểu là tiến hành đồng thời với việc diệt bọ chét. Mục tiêu hàng đầu của phòng chống dịch hạch là làm giảm nhanh càng sớm càng tốt quần thể bọ chét ký sinh.

áp dụng việc phun tồn lưu hóa chất có hiệu quả giảm nhanh mật độ bọ chét tự do trong nhà nhưng đối với bọ chét ký sinh trên chuột sống trong và xung quanh nhà cũng như trên các loài gặm nhấm cư trú trong hang, tổ, đống cây, củi xung quanh nhà thì hiệu quả chỉ có tính tương đối. Hiệu quả rất ít hoặc gần như không có hiệu quả đối với sự lan truyền dịch ở các loài gặm nhấm sống hoang dại.

Rắc hóa chất dạng bột trên đường của chuột đi, dưới đống cây củi hay trong bụi cây xung quanh nhà đối với các loài chuột sống gần người hoặc rắc vào hang ổ của các loài gặm nhấm hoang dại có hiệu quả cao trong việc làm giảm quần thể bọ chét vì khi các loài gặm nhấm chạy ngang qua các đám hóa chất sẽ dính hóa chất lên lông và khi chúng chải lông đưa hóa chất khắp cơ thể chúng sẽ diệt bọ chét ký sinh. Rắc hóa chất dạng bột là một biện pháp cần lựa chọn nhưng có thể không dễ dàng thực hiện.

Khi cần phải làm giảm nhanh quần thể bọ chét ký sinh trên các loài gặm nhấm sống xung quanh nhà và gặm nhấm hoang dại có thể phun hóa chất diệt bọ chét dạng dung dịch hoặc khi phun tồn lưu thì cần chú ý phun kỹ trên sàn nhà và những nơi nghi ngờ có hang tổ chuột.

Chỉ định diệt bọ chét phụ thuộc vào các yếu tố tự nhiên, xã hội và đặc điểm dịch tễ học dịch hạch của địa phương. Tuy nhiên, cần tiến hành diệt bọ chét trong các trường hợp sau:

- Khi có hiện tượng chuột chết tự nhiên mà xác định được nguyên nhân là do dịch hạch hoặc nghi ngờ dịch hạch.

- Đầu mùa dịch ở những vùng có dịch đang lưu hành và vùng có nguy cơ cao.

- Nơi ghi nhận có bệnh nhân dịch hạch.

- Trong quá trình giám sát dịch hạch, phân lập được Yersinia pestis từ chuột hoặc bọ chét.

- Khi chỉ số bọ chét trên 1 và nhất là nhiều bọ chét tự do tại một số địa điểm quan trọng như : kho lương thực, nhà máy xay, chợ, các đầu mối giao thông quan trọng : cảng, nhà ga, bến xe ô tô ...

- Tại các địa phương có dịch lưu hành những năm trước.

6.2.1. Phòng chống bọ chét ký sinh trên chuột.

Đối với dịch hạch lưu hành ở khu dân cư thành thị cũng như nông thôn thì trung gian truyền bệnh phổ biến là X. cheopis, X. astia hoặc X. brasiliensis và các loài vật chủ thường gặp là những loài chuột sống và làm tổ ở trong và xung quanh nhà ở như R. rattus, R. exulans hoặc các loài chuột thường sống và làm tổ ở các bụi rậm xung quanh nhà như R. norvegicusR. bengalensis. Loài gặm nhấm nào là vật chủ của dịch hạch tại địa phương không phải là điều cần quan tâm mà các cán bộ y tế cần phải được học cách nhận biết về sinh thái học và biết cách tìm ra được đường đi lại và hang tổ mà vật chủ sinh sống để xử lý.

Hóa chất dạng bột nên phun vào miệng hang tổ hoặc rắc từng đám dày khoảng 1 cm xung quanh miệng hang. Nên rắc hóa chất từng đám dày 1 cm với kích thước 15 x 30 cm, trên đường đi lại của chuột ở trong nhà mà thông thường là dọc theo chân tường. Để tiết kiệm hóa chất, các hang tổ chuột trước hết phải lấp lại, chỉ khi thấy hang được đào trở lại mới rắc thuốc.

Các đám hóa chất này nên rắc vào những vị trí mà không bị quét đi hoặc xáo tung lên bởi các hoạt động của con người và cẩn thận không để ô nhiễm thực phẩm cũng như các dụng cụ dùng trong ăn uống hàng ngày. Phương pháp này có nhiều điểm không an toàn cho người, gia súc cũng như dễ gây ô nhiễm môi trường nhưng dễ dàng thực hiện với sự hướng dẫn đơn giản và dễ dàng kiểm tra dấu vết của chuột khi chạy qua.

Cần chú ý nhà kho và nơi chứa đựng lương thực, thực phẩm vì thường là nơi thích hợp cho chuột sinh sống và làm tổ. Biện pháp rắc đám hóa chất có thể thay thế bằng cách sử dụng hộp mồi nhử bằng kim loại có thể chứa cả thuốc diệt chuột và bọ chét.

 

Hình 23. Hộp mồi nhử (ống Kartman)

ở các vùng nhiệt đới có thể dùng ống tre hở 2 đầu với đường kính khoảng 7 – 10 cm và dài khoảng 40 cm. ở giữa ống tre đặt khoảng 30 gram mồi nhử có hoặc không có hóa chất diệt chuột, hai đầu ống đặt khoảng 5-6 gram hóa chất diệt bọ chét. ống có thể gắn chặt trên nền đất hoặc sàn nhà, vách, mái nhà ... Cách này đòi hỏi nhiều thao tác nhưng có lợi điểm là an toàn và hiệu quả cao vì hóa chất được bảo vệ ở bên trong ống.

Hình 24. Hộp Kartmant

Phạm vi rắc hóa chất diệt bọ chét ở khu dân cư, nơi xảy ra dịch được xác định dựa vào vị trí xuất hiện bệnh nhân hoặc chuột mà kết quả xét nghiệm vi sinh vật dịch hạch dương tính và phạm vi cần phải bảo vệ. Phạm vi này có thể xác định bằng phạm vi hoạt động của loài gặm nhấm ở trong và xung quanh vùng dịch

Trong mọi trường hợp thì việc phun thuốc diệt bọ chét phải tiến hành càng sớm càng tốt ngay sau khi có bằng chứng về bệnh nhân dịch hạch hoặc kết quả xét nghiệm vi sinh vật dịch hạch dương tính ở vật chủ. Trước khi tiến hành phun hóa chất cần thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng để nhân dân tạo điều kiện và phối hợp với nhân viên y tế trong việc phun hoặc rắc hóa chất. Điều cần đặc biệt lưu ý là việc không để ô nhiễm lương thực và thực phẩm khi tiến hành phun hoặc rắc hóa chất.

ở những nơi có nguy cơ cao xảy ra dịch hạch phải giám sát định kỳ để theo dõi mật độ bọ chét, sự biến đổi theo mùa và độ nhạy cảm của bọ chét với hóa chất hiện có để lựa chọn hóa chất diệt bọ chét hiệu quả.

6.2.2. Phòng chống bọ chét ký sinh trên gặm nhấm hoang dại.

Phòng chống bọ chét ký sinh trên gặm nhấm hoang dại khó hơn so với bọ chét ký sinh trên gặm nhấm gần người vì khó xác định nơi cư trú, những lối đi lại thường xuyên và sự phân bố rộng rãi của quần thể gặm nhấm khó đưa ra quyết định về phạm vi cần phải xử lý.

Thời kỳ trước khi có DDT, ở một số nơi thực hiện việc kiểm soát chuột bằng cách hun khói các hang tổ nghi có chuột cư trú bằng thổi bột HCN. Biện pháp này có kết quả rất kém và quá nhiều nhược điểm vì phạm vi của vùng cần xử lý quá rộng, hun khói thường khó đến được các ngõ ngách của hang chuột nên các loài vật chủ thường trốn được. Tác dụng này chỉ tồn tại trong một thời gian rất ngắn, khuyếch tán đi và điều đáng ngại là hơi độc khi xử lý có thể ảnh hưởng đến sức khỏe người trực tiếp xử lý cũng như khu dân cư gần nơi thực hiện.

Phòng chống bọ chét ký sinh trên gặm nhấm hoang dại bằng nhiều cách như phun hóa chất bằng máy bay hoặc sử dụng máy phun tay vào hang tổ. Biện pháp ít ảnh hưởng đến môi trường là nên sử dụng hóa chất trong hộp mồi nhử đã tiến hành ở Hoa Kỳ. Hình dáng hộp mồi, mồi nhử, hóa chất dạng bột đặt trong hộp mồi nhử cần nghiên cứu sao cho hấp dẫn gặm nhấm. Biện pháp này có hiệu quả tốt, làm giảm nhanh quần thể bọ chét trong phạm vi khá rộng xung quanh nơi đặt hộp mồi nhử. Tuy nhiên, đây là công việc khá nặng nhọc, đòi hỏi kiên nhẫn, phải thay mồi nhử và bổ sung thêm hóa chất cho đến khi nguy cơ dịch hạch giảm đi. Vì những giới hạn này nên thực tế ở nhiều quốc gia biện pháp phun hóa chất vào những hang tổ, đường đi và những nơi gấm nhấm thường đi lại được sử dụng nhiều nhất.

6.2.3. Các loại hóa chất diệt bọ chét.

   Trước khi lựa chọn một loại hóa chất diệt bọ chét để sử dụng trong chương trình phòng chống bệnh dịch hạch, việc thử nghiệm độ nhạy cảm để xác định tình trạng nhạy cảm của quần thể bọ chét đối với hóa chất đó là rất cần thiết và cần tiến hành thử nghiệm tại thực địa để xác định hiệu quả diệt bọ chét trong điều kiện tự nhiên của địa phương.

   Trước kia DDT là một trong những hóa chất phổ biến dùng để diệt bọ chét trong công tác phòng chống dịch hạch nhưng do ngày càng bị kháng, nhất là X. cheopis hơn nữa nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao nên hiện nay hóa chất này không còn sử dụng nữa.

   Các loại hóa chất hiện nay đang sử dụng thuộc nhóm Organo-Phosphorus (OP), carbamate, pyrethroid và Insect-grow-regulator (IGR) có hiệu quả cao với cả bọ chét trưởng thành và ấu trùng, những loại hóa chất này đã chứng tỏ hiệu quả trên thực địa.

Bảng 6. Các loại hóa chất phổ biến dùng trong diệt bọ chét.

Hóa chất

Nhóm

Độ tập trung (%)

chuột (mg/kg đường uống)

LD 50

đường uống

bendiocarb

carbamate

1,00

55,00

carbaryl

carbamate

2,00-5,00

3000,00

propoxur

carbamate

1,00

95,00

deltamethrine

pyrethroid

0,005

135,00

lambdacyhalothin

pyrethroid

 

 

permethrine

pyrethroid

0,50

430,00

diazinon

OP

2,00

300,00

fenitrothion

OP

2,00

503,00

jofenphos

OP

5,00

2100,00

malathion

OP

5,00

2100,00

propetamphos

OP

 

 

pirimiphosmethyl

OP

2,00

2018,00

diflubenzurin

IGR

5,00

 

methoprene.

IGR

 

 

   Một số loại hóa chất khác có hiệu quả diệt bọ chét cao hiện có trên thị trường như fipronil, imidacloprid, lufenuron và pyriproxyfen. Tuy nhiên, việc sử dụng loại hóa chất nào trong chương trình giám sát và phòng chống dịch hạch để diệt bọ chét thường có hướng dẫn của cơ quan y tế cao nhất của mỗi quốc gia và cần phải tiến hành thử nghiệm thực địa để xác định hiệu quả diệt bọ chét cũng như sự chấp nhận phương cách sử dụng trong điều kiện tự nhiên và xã hội tại địa phương. Hiện nay, theo hướng dẫn của thường quy giám sát và phòng, chống bệnh dịch hạch của Bộ Y tế Việt Nam thì hóa chất dùng phun tồn lưu là Permethrine liều phun 0,2 gr/m2, Vectron 0,1-0,2 gr/m2 và Diazinon 0,2 gr/m2.

6.2.4. Tính kháng với hóa chất của bọ chét.

Tính đề kháng của bọ chét với hóa chất là một trở ngại lớn đối với công tác phòng chống bệnh dịch hạch. Vì vậy, cần phải thử độ nhạy cảm định kỳ của bọ chét với các hóa chất sử dụng tại địa phương. Lần đầu tiên, DDT được phát hiện bị bọ chét X. cheopis kháng tại Poona, ấn Độ từ đó tính đề kháng này đã lan truyền rộng rãi đến nhiều loài bọ chét khác.

Bảng 7. Sức đề kháng của các loài bọ chét đối với 1 số hóa chất tại một số nước trên thế giới.

Loài bọ chét

DDT

OP

Khác

Ceratophyllus fasciatus

Liên xô cũ

 

 

Ctenocephalides felis felis

Columbia, Guyana

USA, Tanzania

USA

Pulex irritans

Brazil, Tiệp Khắc, Ecuador, Ai Cập, Hy Lạp, Pê Ru, Thổ Nhĩ Kỳ.

 

 

Stivalius cognatus

Inđônêsia

Inđônêsia

 

Synopsyllus fonquerniei

Madagascar

Madagascar

 

Xenopsylla astia

Miến Điện, ấn Độ

 

 

Xenopsylla brasiliensis

Tanzania

 

 

Xenopsylla cheopis

Brazil, Miến Điện, Trung Quốc, Êcuađo, Ai Cập, ấn Độ, Inđônêsia, Ixraen, Madagascar, Philíppin, Tanzania, Thái Lan, Việt Nam

ấn Độ, Tanzania và Madagascar

Madagascar

Bộ sinh phẩm chẩn đoán độ nhạy cảm của bọ chét với các hóa chất và hướng dẫn sử dụng có thể liên hệ với Văn phòng Khu vực của Tổ chức Y tế Thế giới hoặc Bộ phận Kiểm soát Bệnh Nhiệt đới của Tổ chức Y tế Thế giới .

6.3. Phòng chống chuột.

   Đây là biện pháp quan trọng trong công tác phòng chống dịch hạch, nhưng tại những vùng dịch hạch đang bùng phát ở người thì công tác diệt chuột chỉ được tiến hành sau khi thực hiện các biện pháp diệt bọ chét có hiệu quả. Biện pháp này chỉ được thực hiện khi các chỉ số bọ chét thấp. ở những vùng không có dịch lưu hành hoặc trong thời kỳ dịch hạch không bùng phát thì diệt chuột có thể tiến hành đồng thời với diệt bọ chét.

   Xác định loài vật chủ chính trong vùng dịch cũng như sinh thái học của chúng là rất cần thiết và là cơ sở cho công tác khống chế nguồn bệnh. Bên cạnh đó, cần phải xác định mật độ chuột, tính thay đổi theo mùa và phạm vi di chuyển của gặm nhấm cũng như tính nhạy cảm của vật chủ với các hóa chất.

   Có nhiều biện pháp để kiểm soát được vật chủ như sử dụng hóa chất, đánh bẫy, biện pháp vệ sinh môi trường ...

   6.3.1. Diệt chuột bằng hóa chất.

   Các biện pháp diệt gặm nhấm tùy thuộc vào cách sử dụng hóa chất. Hóa chất diệt chuột có thể được chia thành 2 nhóm dựa theo tác động diệt chuột nhanh hay chậm và mỗi loại có những ưu và nhược điểm riêng. Hiện nay nhóm hóa chất chống đông với cơ chế chống đông máu gây nên xuất huyết nội được ưa chuộng. Các chất chống đông thế hệ nhất như Warfarin, fumarin, coumachlor, coumatetralyl, pival, Diphacinone và chlorphacinone. Thế hệ hai gồm Difenacoum, brodifacoum, bromadiolone và flocoumafen.

Hóa chất chống đông thế hệ thứ nhất

Hóa chất

Tên hóa học

Warfarin

Warfarin [3-(a-acetonylbenzyl)-4-hydroxycoumarin]

Fumarin

(fumarine hoặc coumafuryl) [3-(a-cetonylfurfuryl)-4-hydroxycoumaryl]

Coumachlor.

Coumachlor [3-(1-p-chlorophenyl-2-acettylethyl)-4-hydroxycoumaryl]

Coumatetralyl.

Coumatetralyl [3-(a-tetralyl-4-hydroxycoumaryl]

Pival

Pival [2-pivalyl-1, 3-indandione]

Diphacinone

Diphacinone [2-diphenylacetyl-1,3-indandione]

Chlorphacinone

Chlorphacinone, [2(2-p-chlorophenyl-a-phenylacetyl]

Warfarin là một thuốc chống đông, được phát hiện là một loại hóa chất diệt chuột vào năm 1950 và đã được sử dụng khá rộng rãi. Warfarin là một trong những hóa chất có hiệu quả diệt chuột cao do gây xuất huyết phủ tạng, nhất là phổi. Tuy nhiên ở nhiều nước, việc sử dụng loại hóa chất này đã giảm dần do xuất hiện tính đề kháng và phát hiện nhiều loại hóa chất mới có khả năng chống đông cao hơn. Có thể sử dụng Warfarin ở dạng muối Natri nồng độ 0,5% sử dụng trong hộp mồi nhử hoặc hòa tan trong nước tạo thành dung dịch nồng độ 0,005%mg/ml. Khi dùng mồi độc Warfarin phải dùng liên tục 5-7 ngày, thuốc tích lũy trong cơ thể chuột và chuột chết trong vòng 1 tuần.

Fumarin là hợp chất có màu kem hoặc hơi trắng, thường chế phẩm ở nồng độ 0,5% trong bột ngô hoặc dung dịch muối. Tác dụng diệt chuột và mức độ sử dụng tương tự như Warfarin.

Coumachlor còn được gọi là Tomorin là một trong những hóa chất chống đông đầu tiên. Tác dụng tương tự như Warfarin nhưng có phần kém hiệu quả hơn đối với Rattus norvegicus ít độc nhất của nhóm hóa chất chống đông thế hệ thứ nhất. Hóa chất này đã sử dụng rất thành công ở dạng bột.

Coumatetralyl được gọi là Racumin đã được dùng khá rộng rãi để diệt cả 3 loài chuột sống trong và xung quanh khu dân cư. Các nghiên cứu cho thấy Coumatetralyl ở nồng độ 0,03 và 0,05% có hiệu qủa với Rattus norvegicus tốt hơn warfarin nồng độ 0,025%. ở Đan Mạch, Coumatetralyl không có hiệu quả đối với các loài chuột đã kháng warfarin trên thực địa, còn ở các vùng khác cho thấy hiệu quả diệt các loài chuột sống trong và xung quanh nhà tốt hơn warfarin. Mức độ kháng mạnh với coumatetralyl và các hóa chất chống đông khác đã được ghi nhận ở Đức. Tuy vậy, coumatetralyl là hóa chất vẫn còn sử dụng khá rộng rãi trên thế giới.

Pival còn gọi là pindone là một loại bột mịn màu vàng có mùi hăng nhẹ. Pival ít tan trong nước.

Diphacinone [2-diphenylacetyl-1,3-indandione] là một chất kết tinh không mùi, màu hơi vàng.

Hóa chất chống đông thế hệ thứ hai

Hóa chất

Tên hóa học

Difenacoun

Difenacoun [3(3-p-diphenyl-1,2,3,4-tetrahydronaph-l-yl)-4-hydroxycoumarin]

Brodifacoun

Brodifacoun 3-(3-[4’-bromobiphenyl-4-yl]-1,2,3,4-tetrahydronaphth-1yl)-4 hydroxy

Bromadiolone

Bromadiolone, 3-[3-(4’-bromo[l,l’biphenyl]-4-yl-3-hydroxy-1-phenylpropyl]-4-hydroxy-2H-1benzopyran-2-one]

Flocoumafen

Flocoumafen [3-(4’-trifluoromethylbenzym-oxyphenyl-4-yl)-1,2,3,4-tetrahydro-1-naphthyl-4-hydroxycoumarin]

Difenacoun có cấu trúc tương tự coumatetralyl. Hóa chất này được phát hiện trong quá trình nghiên cứu tìm thuốc diệt chuột do hiện tượng kháng với các hóa chất chống đông ở Anh. Những kết quả báo cáo ở thí nghiệm và thực địa chứng tỏ khả năng gây độc của difenacoun đối với chuột Rattus norvegicusM. musculus kể cả những quần thể chuột đã kháng với warfarin. Kết quả thực địa những vùng chuột đã kháng warfarin cho thấy difenacoum đặt bẫy ở nồng độ 0,005 và 0,01% trong 21 ngày làm chết khoảng 88,9% và 97%.

 

 

6.3.2. Diệt chuột bằng các biện pháp dân gian.

   Nhân dân đã có nhiều kinh nghiệm diệt chuột bằng biện pháp cơ học (đặt bẫy, đào hang ...) và các biện pháp sinh học (nuôi mèo, rắn ...). Có thể dùng các loại bẫy khác nhau như : bẫy bắt sống, bẫy kẹp chết. Loại bẫy thông dụng ở nước ta là :

   Bẫy sập : làm bằng gỗ hoặc kim loại, có một thanh sắt có lò xo làm bàn dật ở giữa, một chốt gương lên đồng thời cũng là chỗ cài mồi. Khi bẫy đã cài, chuột đến ăn và kéo mồi đi làm cho chốt cài tuột ra, bẫy sẽ sập xuống và giết chết chuột. Cần chú ý khi cài bẫy, đề phòng tai nạn cho người.

   Bẫy lồng : Là loại khá phổ biến trong các gia đình làm bằng dây thép, lưói mắt cáo ... Lồng chuột có một cái cửa giương lên keo bằng lo xo. Khi chuột ăn mồi và kéo đi chốt cài sẽ tuột ra và cửa sẽ đóng lại.

   Ngoài ra, còn có nhiều loại bẫy khác như lồng 2 ngăn bắt chuột, cung tre bắt chuột ... Muốn dùng bẫy chuột có kết quả, cần lưu ý các điểm sau :

   - Trước khi giương bẫy, cho chuột ăn quen vài ngày không có cài bẫy. sau đó mới giương bẫy và đắt mồi vào trong.

   - Đặt bẫy trên đường chuột hay đi lại, nơi chuột thường đến ăn thức ăn như thùng thức ăn thừa, gần nguồn nước, chổ cửa hang ...

   - Thức ăn dùng để mồi chuột cần hấp dẫn, trong một khu vực bẫy nên dùng nhiều loại mồi khác nhau

   - Bẫy đã dùng để bắt hay giết chuột xong phải rửa sạch, làm hết mùi của chuột đã sa bẫy.

   Nuôi mèo : có tác dụng phòng trừ hoặc giảm chuột trong nhà. Ngoài việc mèo đuổi và cắn chết chuột ra, sự hiện diện của mèo cũng làm chuột phải xa lánh ra xa nhà ở.

   6.4. Biện pháp kiểm dịch.

   Ngày nay, bệnh dịch hạch vẫn còn lưu hành ở các ổ dịch hạch thiên nhiên tồn tại ở Bắc và Nam Mỹ, Châu Phi, Châu á và Đông Nam Châu Âu, từ 55 vĩ độ Bắc đến 40 vĩ độ Nam. Các vùng dịch hạch lưu hành không cố định mà luôn luôn thay đổi, tuỳ thuộc vào sự thay đổi của nhiều yếu tố tự nhiên, xã hội như : khí hậu, động đất, sự di chuyển của các quần thể gặm nhấm, di dân ... Đặc biệt việc giao thông đường bộ, thủy, hàng không không chỉ trong phạm vi quốc và mà cả toàn cầu rất thuận lợi và nhanh chóng nên nguy cơ lây truyền dịch đi xa là vấn đề cần phải quan tâm.

   Trong lịch sử nhân loại việc kiểm dịch đã được ghi nhận trong thời gian đại dịch thứ 2. Vào lúc bấy giờ, dù chưa có những hiểu biết về dịch tễ học và cơ chế lan truyền bệnh dịch hạch nhưng tại thành phố Dubrovnik, một trong những trung tâm văn hóa lớn nhất Croatia ban hành vào ngày 27 tháng 7 năm 1377, một quy định để bảo vệ thành phố chống lại bệnh dịch hạch và buôn bán tự do với các nước Phương Đông, nơi mà dịch hạch đang hoành hành là các tàu thuyền đến thành phố phải ở tại một khu vực giới hạn trong vòng 30 ngày để xem có biểu hiện bùng phát của dịch hạch không ? Về sau này, thời gian cách ly kéo dài thành 40 ngày. Từ kiểm dịch “quarantine” mô tả sự cách ly để phòng sự lan truyền bệnh nhiễm trùng. Quarantine xuất phát từ tiếng La Tin “Quaranta” có nghĩa là 40. Bởi vì sự cách ly lúc bấy giờ kéo dài 40 ngày. Dubrovnik là một trong những thành phố đầu tiên trên thế giới áp dụng biện pháp cách ly để phòng chống sự lan truyền của các bệnh truyền nhiễm và là thành phố đầu tiên trên thế giới có văn bản ghi lại biện pháp kiểm dịch. Sau nhiều thế kỷ, các bệnh truyền nhiễm gây dịch khác (phong, đậu mùa, lỵ) kiểm dịch thành công. Năm 1590, hoạt động kiểm dịch mở rộng đối với đường bộ là các nhà ở gần phía Đông của thành phố. Sự cách ly đã chứng minh hiệu quả rõ rệt của nó. Trong nhiều thế kỷ, đại dịch lần 2 hoành hành ở Châu Âu, không một vụ dịch nào bùng phát ở thành phố này và việc cách ly của thành phố Dubrovnik là một sự thành công lớn nhất của nền y học Trung Cổ.

Hình 25. Bức tranh mô tả hình ảnh kiểm dịch tại cảng Dubrovnik, Croatia

thời kỳ đại dịch thứ hai.

   Biện pháp kiểm dịch quốc tế đối với bệnh dịch hạch được quy định bởi Tổ chức Y tế Thế giới tại phần V, chương 1, điều 50 đến 60 của Điều lệ Kiểm dịch Quốc tế tại kỳ họp thứ 34 của Hội đồng Y tế Thế giới, năm 1981 (phụ lục 3).

   6.5. Xã hội hóa trong công tác phòng chống dịch hạch.

   Bệnh dịch hạch là bệnh dịch tối nguy hiểm, lan tuyền rộng rất nhanh và tỷ lệ tử vong cao, nên cần phải áp dụng các biện pháp phòng chống dịch liên hoàn và có hệ thống.

Tổ chức ban chỉ đạo phòng chống dịch : Đối với các địa phương đang có dịch lưu hành nên có ban chỉ đạo phòng chống dịch. Cơ cấu thành phần ban chỉ đạo phòng chống dịch, ngoài chủ tịch hay phó chủ tịch ủy ban nhân dân làm trưởng ban, cán bộ y tế làm phó ban cùng các thành phần khác như : đại diện ngành văn hóa thông tin, công an, giáo dục, nông nghiệp, đoàn thanh niên, hội phụ nữ, hội chữ thập đỏ ... làm ủy viên. Bên cạnh đó, thành lập mạng lưới cộng tác viên làm nhiệm vụ tuyên truyền về công tác phòng chống bệnh dịch hạch.

Ban chỉ đạo này thường xuyên kiểm tra, đôn đốc các hoạt động phòng chống dịch, kiểm tra và bổ sung kinh phí, cơ số thuốc, hóa chất, phương tiện, nhân sự sẵn sàng phục vụ chống dịch ở các tuyến.

Tuyên truyền giáo dục cho nhân dân những kiến thức căn bản về bệnh dịch hạch, điều quan trọng cơ bản là có biện pháp hạn chế tối đa không để cho chuột vào nhà bằng cách bảo quản lương thực, thực phẩm, công tác vệ sinh môi trường, hủy bỏ chất thải hợp lý, nuôi mèo. Cần lưu ý trong giáo dục nhân dân là phát hiện thấy có chuột chết bất thường phải khai báo ngay cho cơ quan y tế nơi gần nhất. Nếu có người trong nhà hay hàng xóm biểu hiện bệnh dịch hạch (sốt, nổi hạch ... ) phải đến ngay cơ sở y tế để khám và điều trị.

Hình 26. Học sinh đi cổ động trong ngày phát động

toàn dân phòng chống dịch hạch năm 2002 tại vùng dịch hạch lưu hành

(xã I, huyện Đ, tỉnh G).

6.6. Tiêm chủng

   Gây miễn dịch bằng vắc xin vi khuẩn chết phòng được bệnh dịch hạch thể hạch trong vòng một vài tháng, nhưng không phòng được dịch hạch thể phổi tiên phát. Miễn dịch cơ bản gồm 2-3 mũi với khoảng cách 1-3 tháng. Cần tiêm nhắc lại 6 tháng một lần ở những địa phương có dịch hạch lưu hành và nguy cơ cao.

   Vắc xin sống giảm độc lực đang được sử dụng ở một số quốc gia nhưng gây phản ứng phụ nhiều hơn và không chứng tỏ có hiệu quả cao hơn.

   Hiện nay, tiêm chủng vắc xin dịch hạch được chỉ định giới hạn cho những đối tượng có nguy cơ cao như : người đến công tác tại vùng dịch hạch lưu hành, cán bộ y tế làm việc tại phòng thí nghiệm dịch hạch, cán bộ thực địa làm việc trực tiếp với động vật và bệnh phẩm nhiễm bệnh.