Bọ chét là
loài côn trùng nhỏ, không có cánh thuộc bộ Aphaniptera, có lớp vỏ cứng,
mình dẹt, sống ngoại ký sinh trên động vật, hút máu để sống. Trên thế giới, bộ Aphaniptera
được chia thành 2 họ lớn là Pulicoides và Ceratophylloides,
bao gồm 17 giống và hơn 1500 loài. Tuy nhiên trong điều kiện tự nhiên, có
khoảng 168 loài có vai trò lây truyền bệnh dịch hạch. Trong đó, Xenopsylla
cheopis được quan tâm hàng đầu và là tiêu chuẩn để đánh giá các loài khác.
Hình 14. Vòng đời của bọ chét.
Khả năng
truyền bệnh dịch hạch của các loài bọ chét phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố và
liên quan chặt chẽ với nhau. Năm 1943, Douglas xác định hiệu quả truyền bệnh
của bọ chét là kết quả của 3 khả năng: Khả năng bị nhiễm (infection potential):
là tỷ lệ bọ chét hút máu nhiễm bệnh trở thành bị nhiễm; Khả năng gây nhiễm
(infective potential): tỷ lệ bọ chét bị nhiễm trở nên có khả năng lan truyền và
khả năng lan truyền (transmission potential): khả năng tiến hành lan truyền
bệnh của bọ chét bị nhiễm trước khi chết. Sự khác nhau về cấu trúc, kích thước
của tiền dạ dày (proventriculus), tần số lần hút máu, thời gian còn sống sau
khi bị nhiễm của các loài bọ chét khác nhau liên quan đến khả năng thứ 2 và 3.
Để hiểu
được dịch tễ học cũng như sự lan truyền bệnh dịch hạch từ các loài gặm nhấm đến
người, điều cần thiết là xác định loài bọ chét nào có vai trò trong việc lan
truyền bệnh ở một giới hạn địa lý nhất định. Hiểu biết về sinh thái học của bọ
chét là cơ sở để phòng chống cũng như kiểm soát được sự lan truyền tác nhân gây
bệnh.
Phần lớn các loài bọ chét quan trọng thường sống ngoại ký sinh trên những loài gặm nhấm sống trong hoặc xung quanh khu dân cư. Vì sự tiếp xúc khá gần gũi của các loài bọ chét này với người nên thường bắt gặp chúng trên thú nuôi và gia súc. Hầu hết các loài bọ chét này có phân bố rộng rãi trên thế giới. Tuy nhiên, ở nhũng vùng địa lý khác nhau thì thành phần loài cũng như vai trò truyền bệnh sẽ khác nhau. Bọ chét ký sinh trên gặm nhấm sống gần người được phân loại như sau:
Nhóm bọ
chét sống ký sinh chọn lọc trên những loài gặm nhấm sống gần người có phân bố
khá rộng rãi và thường thấy ở những vùng dịch hạch lưu hành địa phương. Loài Xenopsylla
cheopis có phân bố khá rộng trên thế giới còn loài X. brasiliensis
và Nosopsylla fasciatus thì phân bố địa lý hạn chế hơn.
Những loài
bọ chét ký sinh chọn lọc đối với gặm nhấm sống gần người có phân bố chỉ hạn chế
thậm chí chỉ giới hạn trong một vùng địa lý hẹp như X. astia
Một số
loài bọ chét thường ký sinh ở gặm nhấm hoang dại nhưng lây lan sang gặm nhấm
sống gần người .
Nhóm bọ
chét thường gặp ở môi trường của một số loài gặm nhấm sống gần người và chỉ gặp
giới hạn ở những loài gặm nhấm này mặc dù các loài bọ chét này không phải những
loài sống ký sinh chọn lọc như Echidnophaga gallinacea và Pulex
irritans, cả 2 loài này phân bố rộng rãi trên thế giới và bọ chét mèo (Ctenocephalides
felis).
Xenopsylla
cheopis là véc tơ quan trọng nhất trong
việc lan truyền bệnh dịch hạch cũng như bệnh do Rickettsia. Theo kết quả
của một số nghiên cứu thì loài bọ chét này có nguồn gốc từ Ai Cập, ký sinh trên
chuột theo các tàu thuyền chở hàng hóa lan truyền đi khắp thế giới trong thế kỷ
thứ XIX. Bọ chét này thường sống ký sinh trên các loài Rattus nhưng cũng
gặp trên các loài gặm nhấm khác sống trong và xung quanh khu dân cư. Khi có một
tỷ lệ Xenopsylla cheopis nhiễm vi khuẩn dịch hạch càng cao thì nguy cơ
xảy ra dịch hạch ở địa phương đó càng lớn.
Xenopsylla
astia cũng là loài bọ chét thường ký sinh
trên chuột và chuột túi. Chúng phân bố từ bán đảo ả Rập đến I Ran, Đông Nam
Châu á và Triều Tiên. Ngoài ra còn gặp ở bờ biển phía Đông Châu Phi. Loài này
ít có vai trò truyền bệnh so với Xenopsylla cheopis.
Xenopsylla
brasiliensis có nguồn gốc ở Châu Phi và Nam
Sahara. Tại những vùng này chúng có vai trò truyền bệnh dịch hạch quan trọng
hơn Xenopsylla cheopis. Bọ chét này lan truyền đến các vùng khác trên
thế giới như Braxin và ấn Độ. Chúng có vai trò quan trọng trong việc lây truyền
bệnh dịch hạch, nhất là dịch hạch vùng nông thôn. So với Xenopsylla cheopis,
loài bọ chét này có sức chống chịu với nhiệt độ cao kém hơn nhưng ở điều kiện
khô hạn chúng chịu đựng tốt hơn.
Nosopsyllus
fasciatus là một trong những loài bọ chét
sống ký sinh phổ biến trên các loài chuột gần người ở Châu Âu. Phân bố khá rộng
rãi, gặp ở Hoa Kỳ, Trung Quốc, Triều Tiên và gần đây xuất hiện và gia tăng ở
Nhật Bản. Bọ chét này gặp trên các loài thú có vú và gặm nhấm khác nhiều hơn
chuột. Loài này ít có vai trò quan trọng trong lan truyền dịch hạch.
Monopsylla
anisus là loài bọ chét ký sinh trên các
loài chuột sống ở vùng ôn đới ở Đông á, kéo dài từ Trung Quốc và Transbaikala,
Nga đến Nhật Bản. Chúng còn gặp ở một số cảng của San Francisco, Vancouver và
Anh.
Leptopsylla
segnis có nguồn gốc từ Tây á và phân bố khá
rộng rãi trên thế giới, nhất là vùng khí hậu ôn đới. Loài bọ chét này chỉ đóng
vai trò thứ yếu trong lây truyền bệnh dịch hạch.
Pulex
irritans còn gọi là bọ chét người, theo các
nghiên cứu thì có loài bọ chét này nguồn gốc từ Trung và Nam Châu Mỹ, chúng ký
sinh trên chuột lang và lợn cỏ Pêcari. Mặc dù loài bọ chét này hiện nay có phân
bố khá rộng rãi trên thế giới và sống ký sinh trên nhiều động vật hoang dại như
loài cáo, lửng lợn, sóc đất, chuột và các loài gia súc như heo, dê, chó, mèo và
người. Loài bọ chét này nhưng thường gặp với mật độ cao ở khu dân cư. Pulex
irritans được xem như là véc tơ của bệnh dịch hạch ở Angôla, Braxin,
Burundi, Côngô, Iran, Irắc, Nêpan và Tanzania.
Bọ chét Ctenocephalides
felis có phân bố rất rộng và tính chọn lựa vật chủ thấp nên gặp ở nhiều vật
chủ như chuột, chó, người, các loài thú có vú khác và cả trên chim. Loài này
cùng với bọ chét chó Ctenocephalides canis có thể lây truyền vi khuẩn
dịch hạch từ các loài vật nuôi trong nhà sang người.
Cho đến
nay, ở Việt Nam đã phát hiện được 34 loài bọ chét thuộc 7 họ.
Bảng 4.
Danh mục các loài bọ chét ở Việt Nam
Họ |
Loài |
Pulicidae |
1.
Xenopsylla astia (Rothschild, 1911) |
2.
Xenopsylla cheopis (Rothschild, 1903) |
|
3. X.
vexabilis hawaiiensis (Jordan, 1932) |
|
4. Pulex
irritans (Linnaeus, 1758) |
|
5.
Ctenocephalides felis felis (Bouchộ, 1835) |
|
6. Ctenocephalides
felis orientis (Jordan, 1925) |
|
7.
Pariodontis riggenbachi wernecki (Costa Lima, 1940) |
|
8.
Pariodontis subjugis (Jordan, 1925) |
|
Pygiosyllidae |
9.
Lentistivalius klossi kloss (Jordan & Rothschils, 1922) |
10.
Lenstivalius klossi bispiniformis (Li & Wang, 1958) |
|
11.
Stivalius aporus rectodigitus (Li & Wang, 1958) |
|
12.
Medwayella sp |
|
Hystrichopsyllidae |
13.
Neopsylla dispar (Jordan, 1932) |
14.
Neopsylla fukiennensis (Chao, 1947) |
|
15.
Neopsylla avida (Jordan, 1931) |
|
16. Neopsylla
tricatas (Jordan, 1931) |
|
17.
Stenischia mirabilis (Jordan, 1932) |
|
Ischnopsyllidae |
18.
Ischnopsyllus (Hexactenopsulla) indicus (Jordan, 1931) |
19.
Thaumapsylla breviceps orientalis (Smit, 1954) |
|
Leptopsyllidae |
20.
Leptopsylla segnis (Schonherr, 1811) |
21.
Acropsylla girshami (Traub, 1950) |
|
Ancistropsyllidae |
22.
Ancistropsylla roubaudi (Toumanoff, Fuller, 1947) |
Ceratophyllidae |
23.
Macrostylophora liae (Wang, 1957) |
24.
Macrostylophora hastata tonkiensis (Jordan, 1939) |
|
25.
Macrostylophora pilata (Jordan & Rothschild, 1922) |
|
26.
Macrostylophora protata (Jordan & Rothschild, 1922) |
|
27.
Macrostylophora sp1. |
|
28.
Macrostylophora sp2. |
|
29.
Myoxopsylla sp. Nguyễn Kim Bằng, 1970) |
|
30.
Nosopsylla fasciatus (Bosc, 1801) |
|
31.
Nosopsylla nicanus (Jordan, 1937) |
|
32.
Nosopsylla wualis (Jordan, 1941) |
|
33.
Paraceras sp1. |
|
34.
Paraceras sp2. |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét