4.1. Lâm sàng bệnh dịch hạch.
Tùy theo vị trí thương tổn giải
phẫu bệnh lý, có thể gặp nhiều thể lâm sàng với tỷ lệ khác nhau nhưng phổ biến
nhất là thể hạch. Thể nhiễm khuẩn huyết và thể phổi tiên phát hiếm gặp hơn. Các
trường hợp nhiễm khuẩn huyết và viêm phổi thứ phát có thể xem là biến chứng của
thể hạch không được điều trị sớm và tích cực. Ngoài ra còn gặp các biểu hiện
khác như viêm màng não mủ, việm họng, thể xuất huyết, thể da … Tuy nhiên các
biểu hiện này thường gặp trong bệnh cảnh hoặc xảy ra thứ phát sau thể hạch
4.1.1.
Dịch hạch thể hạch.
Thể lâm
sàng của bệnh dịch hạch không hằng định và nhiều thể. Tuỳ vào từng vùng và vụ
dịch mà tỷ lệ gặp có khác nhau, nhưng nhìn chung thể hạch vẫn phổ biến nhất.
Thống kê
của một số bệnh viện ở Việt Nam như sau: Bệnh viện Chợ Quán từ năm 1977 đến
1986 gặp 94-98%; Bệnh viện Đắc Lắc từ năm 1976 đến 1986 gặp 97% và Bệnh viện
Phú Khánh từ 1982 đến 1986 gặp 98% .
ở New
Mexico từ năm 1980-1984 gặp 74.7% là thể hạch.
Theo qui
định của Tổ chức Y tế Thế giới, thời gian nung bệnh trong vòng 6 ngày, thời kỳ
này kéo dài hơn ở những người đã được chủng ngừa vắc xin. Thời kỳ ủ bệnh không
có triệu chứng gì, sau đó bệnh thường khởi phát đột ngột với hai nhóm dấu hiệu
đặc trưng của bệnh dịch hạch là nhiễm khuẩn - nhiễm độc và viêm hạch.
* Hội
chứng nhiễm trùng-nhiễm độc.
Sốt cao
đột ngột là triệu chứng tương đối trung thành và thường xuất hiện trước khi
viêm hạch. Nếu được điều trị bằng kháng sinh đặc hiệu thì nhiệt độ hạ nhanh và
nhiều, trong vòng 18-24 giờ có thể giảm đến 1.5 đến 20C, ngày sau có
thể hết sốt hoặc sốt nhẹ thêm 2-3 ngày rồi hết hẳn.
Các dấu
hiệu nhiễm trùng, nhiễm độc thần kinh biểu hiện mức độ nặng nhẹ của bệnh và là
yếu tố quyết định tiên lượng bệnh. Cần đặc biệt quan tâm khi thấy xuất hiện sớm
trong vòng 24 giờ đầu. ở thể nhẹ, bệnh nhân mệt mỏi, biếng ăn nhưng vẫn tươi
tỉnh. Bệnh càng nặng, biểu hiện nhiễm độc càng rõ. Mặt đỏ, kết mạc mắt xung
huyết, môi khô, lưỡi bẩn, đau nhức nhiều nơi. Người bứt rứt khó chịu, vẻ mặt lo
âu sợ hãi, hoặc hốt hoảng, vật vã, kích động, nói nhảm hoặc lừ đừ, mắt đờ đẫn,
nằm yên không cử động, không ngủ. Đôi khi gặp ảo giác, trả lời chậm chạp, khi
đúng khi sai, tiếng nói không rõ ràng. Hiếm gặp hơn là động tác bất thường,
thỉnh thoảng gồng người co giật, vã nhiều mồ hôi. Có trường hợp ói mửa, ỉa
chảy. Khó thở nhanh mà không có tổn thương bệnh lý ở phổi.
* Viêm
hạch.
Viêm hạch
thường xuất hiện đồng thời hoặc sau sốt vài giờ đến 24 giờ, một số ít trường
hợp nổi hạch trước sốt. Viêm hạch dịch hạch là một loại viêm cấp tính với triệu
chứng đau là tính chất nổi bật lên hàng đầu. Đau là triệu chứng sớm nhất và
thường xuất hiện trước khi nổi hạch (87%). Đau tăng lên khi bệnh nhân cử động
hay sờ nắn và bệnh nhân thường ở tư thế nhằm làm giảm sức căng lên vùng đó.
Thuốc giảm đau không hoặc có tác dụng rất ít. Đau tự nhiên, càng nhiều và càng
sớm, đi đôi với sốt cao thường tiên lượng nặng hơn. Đau giảm rõ rệt và nhanh
chóng trong vòng 24 đến 48 giờ sau khi bệnh nhân được điều trị bằng kháng sinh
đặc hiệu.
Thường có
một hạch và vị trí có liên quan đến vị trí đốt của bọ chét, phổ biến nhất là
vùng đùi bẹn: 62-80%. Kế đó là: hạch nách 14 - 20%, hạch cổ, hạch dưới hàm:
15-18%. Có thể gặp hai hoặc nhiều hạch xuất hiện lần lượt hoặc cùng một lúc.
Biểu hiện này cũng như vị trí hạch vùng cao (cổ, nách, thượng đòn … ) thường là
một biểu hiện nặng cần được chú ý.
|
|
Hình 18. Hình ảnh bệnh nhân dịch hạch thể hạch
(A: viêm hạch cổ trái; B: viêm hạch bẹn phải)
Hạch viêm
tiến triển nhanh với sưng tấy, nóng, đỏ và rất đau. Kích thước hạch tuỳ vào
thời điểm phát hiện. Ban đầu nhỏ, di động, màu da ngoài bỉnh thường, trong vòng
1 hoặc 2 ngày đã sưng to có khi đến 10cm nhưng thường dưới 3cm. Tổ chức xung
quanh hạch bị viêm, phù nề và dính vào nhau thành 1 khối không di động, màu da
bên ngoài hạch đỏ tía. Trong trường hợp được điều trị sớm, đúng thì hạch giảm
đau nhanh, teo nhỏ lại và “mất đi” trong vòng 2-3 tuần hoặc trở nên xơ hoá để
lại một khối rắn trong một thời gian dài sau khi khỏi bệnh.
Một số
trường hợp hạch hoá mủ, mềm dần, da bên ngoài tím lại, cần phải chích, rạch hoặc
hút mủ để điều trị. Trong trường hợp này, bệnh nhân thường sốt kéo dài, dấu
hiệu nhiễm trùng-nhiễm độc nặng hơn.
Dịch hạch
thể hạch, ngoài thể lâm sàng như mô tả như trên còn có 1 thể nhẹ (pestis minor)
đã gặp và được mô tả ở Nam Mỹ và một số vùng khác. Những trường hợp này bệnh
nhân vẫn đi lại được, sốt nhẹ, thậm chí không sốt và không có dấu hiệu nhiễm
độc. Viêm hạch bạch huyết bán cấp và đau ít, thường chỉ có 1 hạch bẹn, ít khi ở
nách hoặc cổ. Tiến triển hạch thường tiêu đi từ từ, có thể hạch làm mủ và vỡ
ra.
4.1.2
Dịch hạch thể nhiễm trùng huyết
Tỷ lệ gặp
của thể nhiễm khuẩn huyết đứng thứ hai sau thể hạch. Do việc xác định giữa thể
nhiễm khuẩn huyết và thể hạch nặng còn chưa được thống nhất cũng như có thể bị
bỏ sót trong thể tiên phát và độc lực của vi khuẩn khác nhau mà tỷ lệ ghi nhận
thay đổi khá lớn. Các nghiên cứu ở Việt Nam cho thấy thể này chiếm không quá 3%
nhưng theo thống kê ở Hoa Kỳ từ 1950 đến 1994 có 373 bệnh nhân dịch hạch thì
thể nhiễm khuẩn huyết có 64 trường hợp (17.2%) với 18 bệnh nhân tử vong, tỷ lệ
tử vong là 28%. ở New Mexico từ năm 1980-1984 gặp 25% là thể nhiễm khuẩn huyết.
Quan niệm
về thể nhiễm khuẩn huyết có nhiều ý kiến khác nhau. Theo Pollitzer, dịch hạch
thể nhiễm khuẩn huyết tiên phát là do sự xâm nhập vào máu của một số lượng lớn
vi khuẩn dịch hạch không qua giai đọan khu trú ở hạch. Một số tác giả khác
(Girard, Dujardin, Beaumetz, Joltrain) cho rằng thể nhiễm khuẩn huyết chỉ thứ
phát sau thể hạch nằm trong sâu, thăm khám bên ngoài không sờ thấy được. Các tổ
chức hạch này vẫn chứa nhiều vi khuẩn.
Dịch hạch
thể nhiễm trùng huyết tiên phát là những trường hợp nhiễm khuẩn huyết được xét
nghiệm kết luận là do Yersinia pestis mà lâm sàng không phát hiện được
triệu chứng viêm hạch. Thể bệnh này không có triệu chứng viêm hạch đặc hiệu nên
rất dễ bị bỏ sót và tử vong cao. Thống kê ở Hoa Kỳ năm 1996 có 5 bệnh nhân dịch
hạch mà đã 2 trường hợp thể nhiễm khuẩn huyết chỉ được chẩn đoán dương tính sau
tử vong. Thể lâm sàng này có thể gặp ở mọi lứa tuổi nhưng ở người già thường
gặp hơn.
Lâm sàng
thể nhiễm khuẩn huyết của bệnh dịch hạch không có nét đặc trưng riêng mà tương
tự như nhiễm khuẩn huyết Gram âm khác
Căn cứ vào
sự tiến triển của bệnh nhân trên lâm sàng có thể chia thành 2 thể : tối cấp và
cấp. ở đây biểu hiện hạch viêm là dấu hiệu không quan trọng. Chủ yếu là các
biểu hiện của nhiễm khuẩn huyết với những dấu hiệu nhiễm độc thần kinh nổi lên
hàng đầu.
Bệnh nhân
đột ngột sốt cao 40-410C, rét run, đau đầu dữ dội, tiêu chảy và ói
mửa nhiều lần. Hốt hoảng, vật vã, kích động, nói sảng, tím tái, thở nhanh nông
… liền sau đó đi vào sốc nhiễm trùng nhiễm độc. Soi tươi các bệnh phẩm sẽ thấy
vi khuẩn dạng dịch hạch. Thường bệnh nhân tử vong nhanh chóng trong vòng 1 vài
ngày nếu không được điều trị sớm và hồi sức tích cực ngay từ những giờ đầu của
bệnh.
Cần lưu ý
rằng cấy máu có Yesinia pestis không thể là tiêu chuẩn xác định thể
nhiễm khuẩn huyết, nếu không có biểu hiện nhiễm độc thần kinh nặng. Sự hiện
diện của vi khuẩn dịch hạch trong máu có thể là nhất thời (vãng khuẩn huyết) và
không tác động đến toàn bộ thể trạng chung.
4.1.3.
Dịch hạch thể phổi
Bệnh dịch
hạch đáng sợ nhất là thể phổi vì tiến triển nhanh và tỷ lệ tử vong rất cao.
Trái với thể hạch thường xảy ra ở trẻ dưới 14 tuổi, thì thể này thường xảy ra ở
người trên 15 tuổi. Thể tiên phát ít gặp hơn thứ phát. Trong 9 bệnh nhân dịch
hạch thể phổi ở bệnh viện đa khoa tỉnh Đắc Lắc năm 1981-1982 thì 7 bệnh nhân có
viêm hạch. Thống kê ở Hoa Kỳ từ 1950 đến 1994 ghi nhận 373 bệnh nhân dịch hạch
thì có 39 trường hợp viêm phổi thứ phát sau dịch hạch thể hạch, có 7 trường hợp
dịch hạch thể phổi tiên phát và tỷ lệ tử vong chung đối với thể phổi là 41%.
Tiêm phòng vắc xin dịch hạch thường phòng được thể hạch chứ không phòng được
thể này.
Thể tiên
phát là do tác động trực tiếp của vi khuẩn trên tổ chức phổi theo đường hô hấp
trên, bệnh xuất hiện dưới dạng viêm đặc thùy phổi và diễn biến rất cấp tính.
Thời gian nung bệnh của thể phổi thường ngắn hơn, chỉ trong một vài ngày, thậm
chí chỉ trong vòng vài giờ sau khi nhiễm bệnh. Sau đó bệnh khởi phát rất đột
ngột với sốt cao, rét run, đau đầu, hoa mắt, chóng mặt, mạch nhanh, huyết áp
thấp, bệnh nhân bứt rứt. Trong vòng 24 giờ sau, các dấu hiện của tổn thương hô
hấp xuất hiện nhanh chóng, có rối loạn chức năng hô hấp như đau tức ngực, thở
nhanh nông, khó thở. Lúc đầu ho có đờm nhầy, loãng. Sau đó đờm đặc dần, có vết
máu, có khi có bọt.
Triệu
chứng thực thể ở phổi rất nghèo nàn : Gõ bình thường hoặc đục một vài nơi, âm
phế bào và rung thanh không thay đổi. Đôi khi tìm thấy dấu hiệu 3 giảm hoặc
tiếng cọ màng phổi. X quang phổi biểu hiện rất sớm, có thể thấy hình ảnh đông
đặc phổi thông thường hoặc nhiều bóng mờ rải rác hoặc hình ảnh bong bóng giống
viêm phổi tụ cầu.
Hình 19.
Hình ảnh x quang viêm phổi thùy dưới và giữa bên trái của một bệnh nhân dịch hạch
thể phổi nguyên phát
ở đây cần
phân biệt với trường hợp bệnh nhân nhập viện khó thở dữ dội, khạc bọt màu hồng,
tím tái, nghe phổi đầy ran nổ, ran ướt. Bệnh nhân tử vong nhanh chóng. Đây là
biến chứng phù phổi cấp của một dịch hạch nặng, có thể có viêm phổi nhưng không
được điều trị sớm và tích cực.
4.1.4.
Những thể ít gặp khác
* Thể
màng não:
Tỷ lệ gặp
ở Việt Nam khoảng 1,44%. Bệnh viện tỉnh Đắc Lắc thống kê từ 1981-1985 cho biết
viêm màng não dịch hạch chiếm tỉ lệ 3,9% (15/380 trường hợp). Thống kê ở Hoa Kỳ
từ 1950 đến 1994 có 373 bệnh nhân dịch hạch thì có 12 trường hợp và tất cả đều
là thứ phát sau dịch hạch thể hạch và không có trường hợp nào tử vong.
Bệnh dịch
hạch thể viêm màng não luôn luôn thứ phát sau thể hạch, nhiễm khuẩn huyết. Vi
khuẩn dịch hạch vượt qua hàng rào máu - dịch não tủy để gây tổn thương ở não,
màng não. Viêm màng não xuất hiện thường vào ngày thứ 10-15 của bệnh, sớm nhất
ngày thứ 5, muộn nhất ngày thứ 35. Chủ yếu là do điều trị dở dang, ngừng kháng
sinh sớm quá, trước thời gian cần thiết vì nghĩ rằng đã khỏi bệnh, hết sốt,
hạch hết đau. Có trường hợp bệnh nhân đang điều trị đặc hiệu thường gặp là dùng
liều thấp, các triệu chứng toàn thân và tại chỗ thuyên giảm đột nhiên xuất hiện
triệu chứng đau đầu nhiều, nôn ói, sợ ánh sáng và sốt cao trở lại.
Lâm sàng
viêm màng não dịch hạch giống như các viêm màng não mủ do vi khuẩn khác gây nên
: dấu hiệu màng não rõ. Dịch não tủy đục, áp lực tăng, đạm tăng, đường giảm. Tế
bào tăng từ 200-6000/mm3, đa số là đa nhân trung tính (75-90%). Cá
biệt có trường hợp lym phô bào lại chiếm đa số. Có khi dịch não tủy trong với
lym phô bào chiếm đa số dễ chẩn đoán nhầm với viêm màng não lao hay viêm màng
não mất đầu.
Chẩn đoán
viêm màng não dịch hạch tương đối dễ nếu bệnh xuất hiện ngay trong giai đoạn cấp
tính của dịch hạch nặng. Không thể có vi khuẩn bội nhiễm khác xen vào. Ngược
lại, nếu bệnh phát ra sau một thời gian lặng im, cách xa 10-15 ngày thời kỳ
sốt, viêm hạch đầu tiên đã điều trị dở dang thì chẩn đoán khó khăn nhiều vì dễ
bỏ qua và dễ nhầm với tác nhân gây bệnh khác.
Dịch hạch
thể màng não tái phát mãn tính với các dấu hiệu sốt, đau đầu, các dấu hiệu màng
não và bạch cầu tăng kéo dài nhiều tuần, thậm chí nhiều tháng đã được mô tả
trong y văn vào thời kỳ chưa có kháng sinh.
* Thể
xuất huyết:
Thể này ít
gặp. Bệnh viện Chợ Quán năm 1977 là 2,4%. Năm 1979 là 7,8%. Biểu hiện xuất
huyết đa dạng, ở nhiều nơi : da, niêm mạc (tử ban, mảng xuất huyết, chảy máu
cam, chảy máu răng lợi. Xuất huyết nội tạng : nôn máu, đi cầu phân máu, ho ra
máu, xuất huyết màng não ...) Xuất huyết xảy ra sớm hoặc từ ngày thứ 2 của
bệnh, có thể muộn hơn vào ngày 5-6 của bệnh. Thường là biến chứng của thể hạch
hoặc biểu hiện cùng lúc với viêm hạch.
* Thể
hầu họng :
Biểu hiện
lâm sàng dưới 2 dạng :
Viêm họng
giả mạc giống bạch hầu : tỷ lệ gặp ở Bệnh viện Đa khoa tỉnh Đắc Lắc từ năm
1981-1985 là 0,53%. Biểu hiện là amiđan sưng đỏ, sung huyết. Viêm amiđan có
loét, có giả mạc mủn, trắng đục hoặc nâu đen nếu xung huyết. Niêm mạc đỏ rực và
hơi thở rất hôi. Sau đó, tiến triển sưng hạch góc hàm, phù nề quanh hạch làm cổ
bành ra thường gặp là một bên, tương ứng với bên amiđan sưng to.
Thể giống
quai bị : Thống kê Bệnh viện Đa khoa tỉnh Đắc Lắc từ 1981-1985 gặp 1,6%. ở Bệnh
viện Chợ Quán trong năm 1984 gặp 73 bệnh nhân dịch hạch, thể giống quai bị gặp
6,85%. Biểu hiện là sưng hạch góc hàm kèm phù nề quanh hạch, lan nhanh bao trùm
cả tuyến mang tai một bên rồi 2 bên, sau đó lan dưới cằm và cổ làm cổ bành ra
giống quai bị. Da tại chỗ viêm nóng đỏ, mật độ rắn chắc hơn quai bị.
4.1.5.
Chẩn đoán phân biệt.
* Viêm
hạch nhiễm trùng : Viêm hạch khu vực do phản ứng với một nhiễm trùng là một
chẩn đoán nhầm lẫn khó trách khỏi với dịch hạch thể hạch. Dễ phân biệt nếu còn
tồn tại vết thương nhiễm trùng, không có viêm bạch mạch và thiếu yếu tố dịch tễ
học. Điều đáng lưu ý là có một số trường hợp Yersinia pestis có thể gây
nhiễm qua vết thương ở da. Tạp chí JAMA 17/02/1984, Bruce G. Weniger ghi nhận
một bé gái 10 tuổi ở Jefferson county, Oregon bị mèo cào gây nhiều vết thương
nông ở 2 tay và một vết sâu ở núm vú trái. Vài ngày sau, sưng hạch nách trái và
sốt cao. Xét nghiệm máu bạch cầu 10.000/mm3, đa nhân trung tính 75%.
Cấy máu tìm thấy Y. pestis, xác định chắc chắn bằng ly giải thực khuẩn
thể và kháng thể huỳnh quang. Huyết thanh chẩn đoán dịch hạch (phương pháp
ngưng kết hồng cầu thụ động) cho hiệu giá 1/16 và 1/32.
Điều tra dịch tễ học phát hiện 4 trong 5 con mèo nuôi trong nhà có mang Y.
pestis.
* Sốt rét
ác tính: Đây là một chẩn đoán nhầm lẫn hay gặp nhất ở tuyến ban đầu và phòng
khám của các bệnh viện. Nhất là khi thăm khám không chú ý đến khám hạch ngoại
vi. Cần chú ý là tại một vùng có thể lưu hành 2 bệnh cùng một lúc, dịch hạch và
sốt rét. Bệnh dịch hạch có thể xảy ra trên một người mang ký sinh trùng lạnh
trong máu ngoại vi. Cũng có thể gặp bệnh nhân bị đồng thời dịch hạch và sốt
rét, trường hợp này cần điều trị song song 2 bệnh.
* Bệnh
nhiễm tụ cầu ở da và phổi: Chẩn đoán lầm lẫn giữa hai loại bệnh này sẽ đưa đến
tử vong hoặc biến chứng nghiêm trọng, nếu sau đó có điều chỉnh lại chẩn đoán
thì trị liệu đặc hiệu thường đã muộn. Chú ý về những biểu hiện nhọt mủ, nốt
phỏng mủ ngoài da. Hình ảnh bong bóng trên phim X-quang phổi thường đi kèm với
sốt, nổi hạch và tình trạng nhiễm trùng nhiễm độc toàn thân. Bệnh nhân vật vã,
bứt rứt trong dịch hạch nặng hơn so với nhiễm tụ cầu và cần chú ý đến yếu tố
dịch tễ học.
* Bệnh sốt
xuất huyết: dịch hạch chẩn đoán nhầm với sốt xuất huyết thường gặp trong 1-2
ngày đầu của bệnh, hay đối với thể xuất huyết của dịch hạch. Phải dựa vào yếu
tố dịch tễ học và xét nghiệm công thức máu.
4.1.6.
Xét nghiệm.
Xét nghiệm
đặc hiệu:
* Phân lập
Yersinia pestis trong các bệnh phẩm như: dịch chọc hạch, máu ngoại vi,
nhớt cổ họng, dịch não tủy.
* Huyết
thanh chẩn đoán dịch hạch: làm hai lần cách nhau 10-12 ngày: lần đầu lúc bắt
đầu nhập viện, lần thứ hai trước lúc ra viện. Hiệu giá kháng thể đối với kháng
nguyên F1 ở lần thứ hai tăng trên bốn lần so với lần đầu.
Xét nghiệm
khác:
* Bạch cầu
tăng cao trên 16.000/mm3, đa nhân trung tính trên 80%. Bệnh càng
nặng bạch cầu càng cao: có thể đến 100.000/mm3.
* Trong
các thể nặng: dự trữ kiềm hạ thấp, u-rê máu tăng nhanh, tiểu cầu giảm, có hiện
tượng rối loạn đông máu, đặc biệt đông máu nội mạch rải rác.
4.1.7.
Chẩn đoán:
Chẩn đoán
bệnh nhân dịch hạch phải căn cứ đầy đủ vào 3 yếu tố: dịch tễ học, lâm sàng và
xét nghiệm. Trước một bệnh nhân có đặc điểm lâm sàng của bệnh dịch hạch và có
yếu tố dịch tễ học dịch hạch dương tính thì :
Chẩn đoán nghi ngờ khi phân lập hoặc soi
tươi bệnh phẩm từ lâm sàng phát hiện được vi khuẩn nghi ngờ dịch hạch.
Chẩn đoán
có thể xác định khi kháng nguyên F1 của Yersina pestis trong
bệnh phẩm được xác định bằng phương pháp kháng thể huỳnh quang trực tiếp hoặc
bằng những phương pháp chuẩn khác để phát hiện kháng nguyên F1.
Chẩn đoán
xác định khi phân lập được Yersina pestis hoặc thay đổi nồng độ kháng
thể có ý nghĩa (tăng ³
4 lần)
Yếu tố
dịch tễ học dịch hạch được xem là dương tính khi bệnh nhân:
* Sống
trong vùng có dịch hạch lưu hành.
* Mật độ
chuột và chỉ số bọ chét tăng cao.
* Trong
xóm, làng có người mắc hoặc chết vì bệnh dịch hạch và/hoặc có hiện tượng chuột
chết tự nhiên.
* Người từ
vùng dịch hạch lưu hành mới ra vùng dịch hạch không lưu hành trong vòng một
tuần.
Trong tình
hình hiện nay, việc sử dụng kháng sinh rất tùy tiện, bệnh nhân đã được điều trị
bằng kháng sinh như: bactrime, tetracycline, streptomycin, … nên khi nhập viện
soi cấy tìm vi khuẩn dịch hạch đều âm tính, xét nghiệm huyết thanh đòi hỏi thời
gian và nhất là do yêu cầu cần điều trị sớm nên chẩn đoán dịch hạch cần phải
được tiến hành tại cơ sở, ngay từ khi mới xuất hiện những bệnh nhân đầu tiên.
Trong
trường hợp này, căn cứ vào đặc điểm lâm sàng và xét nghiệm của bệnh dịch hạch
dựa theo 5 tiêu chuẩn chẩn đoán sau :
Hai dấu
hiệu chính:
- Yếu tố
dịch tễ học: Điểm dịch nóng, ổ dịch nhỏ.
Trong nhà
hoặc trong thôn/buôn/xóm có hiện tượng chuột chết tự nhiên, có người mắc hoặc
chết vì bệnh dịch hạch. Cần chú ý không để bị sót là những trường hợp bệnh nhân
từ vùng dịch hạch lưu hành đến vùng không có bệnh dịch hạch lưu hành trong vòng
1 tuần.
- Tác dụng
nhanh chóng của streptomycin, tetracycline hoặc chloramphenicol:
* Làm hạ
sốt xuống trên 1,5-20C trong vòng 12-24 giờ,
* Đau giảm
rõ rệt, nét mặt tươi tỉnh hẳn trong vòng 24-48 giờ.
Ba dấu
hiệu phụ:
Tính chất đau của hạch viêm:
* Đau vùng
sắp nổi hạch.
* Đau
nhiều phải hạn chế cử động và từ chối thăm khám.
* Đau giảm
nhanh chóng trong vòng 24 - 48 giờ sau khi bắt đầu được dùng kháng sinh đặc
hiệu như: streptomycin, tetracycline.
Soi các
bệnh phẩm: (dịch chọc hạch, nhớt cổ họng, phết máu ngoại vi, dịch não tủy) có
vi khuẩn bắt màu lưỡng cực.
Công thức
máu: Số lượng bạch cầu tăng cao trên 16.000/mm3, đa nhân trung tính
trên 80%.
Chẩn đoán
dịch hạch lâm sàng khi có 2 dấu hiệu chính cộng thêm 2 hoặc 3 dấu hiệu phụ.
Trường hợp
bệnh nhân tử vong nhanh mà tác dụng kháng sinh chưa rõ rệt vì không đủ thời
gian theo dõi thì 3 tiêu chuẩn phụ phải đầy đủ và mức độ cao:
* Đau đến
mức không dám cử động.
* Soi
dương tính hầu hết các bệnh phẩm xét nghiệm (chất chọc hạch, nhớt ngoái họng,
máu ngoại vi ....
* Bạch cầu
tăng thêm 30.000 – 40.000/mm3, đa nhân trung tính trên 90%.
4.2.
Điều trị bệnh dịch hạch.
4.2.1.
Kháng sinh.
Mặc dù đã
có những thông báo về vấn đề vi khuẩn dịch hạch phân lập được từ bệnh nhân ở
Madagascar đa kháng với các loại thuốc kháng sinh thường dùng trong điều trị,
nhưng thực tế hiện nay ở Việt Nam cũng như các quốc gia khác trên thế giới, các
loại kháng sinh đặc trị như Streptomycin, chloramphenicol, tetracycline,
sulfonamide vẫn có hiệu lực rất mạnh đối với Yersinia pestis. Khi được
điều trị sớm kể từ khi bệnh phát và kéo dài đủ liều, đủ thời gian thì chắc chắn
tránh được biến chứng nguy hiểm dễ đưa đến tử vong.
Hiệu lực
của điều trị kháng sinh tùy thuộc vào nhiều yếu tố : Độc lực của vi khuẩn và
mức độ nhạy cảm với kháng sinh sử dụng. Thời điểm bắt đầu điều trị, kể từ khi
phát bệnh. Thể lâm sàng, tiên phát hay thứ phát. Loại kháng sinh sử dụng, dùng
riêng rẽ hay phối hợp, liều lượng và thời gian điều trị cũng như các biện pháp
điều trị hỗ trợ.
Song song
với điều trị kháng sinh cần phải nhằm điều trị bệnh sinh, điều trị triệu chứng
chống nhiễm độc thần kinh, chống rối loạn thần kinh nội tiết, rối loạn đông
máu, rối loạn thăng bằng kiềm toan nhất là các thể nặng.
Hướng dẫn
sử dụng kháng sinh.
* Dịch
hạch thể nhẹ:
Dùng một
trong những loại kháng sinh sau, trong 7 ngày.
Tetracycline : Uống 40mg/kg/ngày
Chloramphenicol : Uống 40mg/kg/ngày
Trimethoprim/sulfamethoxazol : Uống
48mg/kg/ngày
Streptomycin : Tiêm bắp
40mg/kg/ngày
* Dịch
hạch thể trung bình:
Dùng hai
loại kháng sinh liên tục trong 10 ngày.
Streptomycin : Tiêm bắp
40-50mg/kg/ngày kết hợp với :
Tetracycline : Uống 40-50mg/kg/ngày hoặc
Chloramphenicol : Uống 40mg/kg/ngày
* Dịch
hạch thể nặng:
Dùng ba
loại kháng sinh liên tục trong 10-14 ngày.
Streptomycin : Tiêm bắp
50mg/kg/ngày kết hợp với :
Chloramphenicol Tiêm tĩnh mạch 50mg/kg/ngày hoặc
Tetracycline : Truyền tĩnh mạch
40-50mg/kg/ngày
Uống 1
loại kháng sinh chưa sử dụng đường tiêm.
Thời gian
điều trị kháng sinh cần xác định cụ thể cho từng trường hợp. Một trong những
dấu hiệu chính để ngưng kháng sinh là hết sốt và hạch hết đau được 4-5 ngày.
Ngưng kháng sinh sớm dễ xuất hiện biến chứng.
Vấn đề sử
dụng kháng sinh ở phụ nữ có thai và trẻ em mắc bệnh dịch hạch cần xem xét cẩn
thận vì tác dụng phụ của những kháng sinh nói trên. Streptomycin có thể gây độc
cho tai và thận với thai nhi. Tetracycline ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của
răng và xương của trẻ em. Chloramphenicol có thể gây ra “hội chứng xanh xám”
hoặc ức chế tủy xương. ở một số nước trên thế giới, việc sử dụng hợp lý
gentamicin cho thấy hiệu quả và an toàn cho cả mẹ lẫn con. Gentamicin, tiêm bắp
hoặc đường tĩnh mạch liều 5mg/kg mỗi ngày một lần hoặc liều đầu tiên 2mg/kg,
sau đó 1,7mg/kg mỗi ngày 3 lần. Việc sử dụng gentamicin cần phải theo dõi chức
năng thận. Tuy vậy, kháng sinh này cho đến nay vẫn chưa được chấp nhận rộng rãi
trong lâm sàng.
4.2.2.
Điều trị triệu chứng.
Song song
với điều trị đặc hiệu cần phải sử dụng các biện pháp điều trị triệu chứng như :
phòng và chống suy chức năng thận, rối loạn tuần hoàn máu, toan chuyển hóa …
chính vì vậy mà người ta sử dụng các loại thuốc sau đây trong các thể nặng, có
biến chứng của dịch hạch:
* Dung
dịch có nhiều điện giải đẳng trương và dung dịch keo: Ringer Lactat, Dextran, …
Số lượng
dịch truyền cần được tính toán tương ứng với lượng nước mất do hậu quả của sốt
cao, thở nhanh, nôn, tiêu chảy …
Thông
thường lượng nước cần thiết khoảng 40-80 mg/kg/ngày. Ngoài ra còn phụ thuộc và
lứa tuổi, mức độ bệnh, chức năng thận.
Việc
truyền dịch thích hợp thay thế huyết tương có khả năng bình thường hóa đại và
vi tuần hoàn, chức năng thận và điều chỉnh thăng bằng kiềm toan của máu.
*
Corticoides: Có tác dụng tốt trong những trường hợp nhiễm độc, có biểu hiện suy
thượng thận cấp.
Liều
thường dùng: Prednisolon 1-5 mg/kg/ngày.
* Hỗn hợp
liệt hạch: tiêm bắp
Aminazin 1mg/kg
Kháng histamin tổng hợp 1mg/kg
Dolosal 1mg/kg
Chỉ định
theo yêu cầu diễn tiến lâm sàng của bệnh, khi bệnh nhân vật vã, mê sảng, có
biểu hiện rối loạn tinh thần kinh thực vật, huyết áp còn ổn định. Có thể nhắc
lại sau 6 giờ. Tối đa 3 lần trong ngày. Chú ý khi rối loạn thần kinh thực vật
ổn định thì cho thêm 1-2 lần với khoảng cách giãn ra 8-12 giờ.
* Heparin
liệu pháp khi có hiện tượng đông máu nội mạch rải rác trong các thể nặng có
biểu hiện xuất huyết, suy thận bắt đầu.
Bảng 5.
Bảng phân chia mức độ nặng nhẹ của bệnh:
Các
biểu hiện |
Nặng |
Trung
bình |
Nhẹ |
Ngày bắt đầu điều trị đặc hiệu (kể
từ ngày bệnh phát) |
Từ ngày thứ 3 trở đi |
Ngày 2-3 |
Trong vòng 24-36 giờ đầu |
Nhiệt độ lúc khởi phát |
39,5 - 400C |
38,5 - 390C |
Dưới 380C |
Huyết áp tâm thu |
< 70mmHg |
70-80 mm Hg |
Bình thường |
Nhịp thở |
Nhanh, gấp |
Hơi nhanh |
Bình thường |
Nhiễm độc thần kinh |
Lơ mơ, li bì, nói nhảm, mê sảng, ói và tiêu chảy nhiều |
Bứt rứt, khó chịu, lo âu, ói và tiêu chảy |
Tươi tỉnh, hơi mệt, biếng ăn |
Thể lâm sàng |
Viêm phổi, NKH, VMN. Xuất huyết |
Hạch to rất đau, vùng cổ họng
amidan. (không kèm theo biến chứng phổi, não, thận ) |
Thể hạch |
Bạch cầu/mm3 |
Trên 40.000 |
20.000-30.000 |
Dưới 16.000 |
Dự trữ kiềm |
Giảm nhiều |
Bình thường |
Bình thường |
Soi tươi phết máu ngoại biên |
(++) |
(-) |
(-) |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét